Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

SỐ 262 - tác giả MAI THỊ KIM HUỆ




TỤC NỐI DÂY TRONG HÔN NHÂN
CỦA NGƯỜI ÊĐÊ Ở TỈNH ĐẮK LẮK


Mỗi dân tộc có một nền văn hoá với những nét truyền thống riêng. Trong quá trình cộng cư, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, việc tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố văn hoá mới của các dân tộc khác đã làm phong phú hơn cho nền văn hoá của dân tộc mình. Tục nối dây (cuê nuê) trong cộng đồng người Êđê ở Đắk Lắk dù đã trải qua một thời gian dài nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại, bởi vì nó vẫn có ý nghĩa và đã tự điều chỉnh tiếp thu những cái mới.

Hôn nhân trong xã hội mẫu hệ truyền thống của người Êđê là ngoại hôn, những người trong cùng một dòng họ không được phép lấy nhau. Vì vậy, việc kết hôn phải được thực hiện giữa hai thành viên thuộc hai dòng họ khác nhau. Với tính cố kết cộng đồng cao, người Êđê quan niệm rằng việc trao đổi hôn nhân giữa các gia đình lớn và dòng họ nhằm thiết lập sự liên minh giữa các dòng họ với nhau và tạo ra nhiều mối quan hệ xã hội mới (quan hệ thông gia, quan hệ với bà con thân thuộc của cả hai bên...).
Hình thức hôn nhân điển hình cho sự liên minh giữa các dòng họ và gia đình đó là loại hình hôn nhân ưu tiên và hôn nhân nối dây. Hôn nhân ưu tiên hay còn gọi là hôn nhân con cô con cậu - nghĩa là các con của cô được phép kết hôn với các con của cậu (anh, em trai của mẹ) vì chúng thuộc về hai dòng họ khác nhau. Hôn nhân nối dây hay còn gọi là tục nối dây - nghĩa là nếu chồng chết thì người vợ góa có quyền đòi hỏi gia đình chồng thay thế người đã khuất bằng anh hoặc em trai, hoặc cháu trai của người này và ngược lại, người chồng cũng có quyền như vậy khi vợ anh ta chết.
1. Nhận thức về tục nối dây
Đối với người Êđê, hôn nhân không những là sự kiện quan trọng đối với một cá nhân nào mà nó là sự kiện quan trọng của mỗi gia đình, dòng họ và rộng hơn là cả buôn, làng, vì hôn nhân của người Êđê ảnh hưởng đến cộng đồng làng. Trong tâm thức của họ, nghi lễ của bất kỳ một cuộc hôn nhân nào kể cả hôn nhân nối dây cũng cần phải có sự chứng kiến của thần linh (Yang) để mong nhận sự phù hộ mọi điều tốt lành đến với cặp vợ chồng, dòng họ và cộng đồng.
Người Êđê theo tập quán mẫu hệ nên cư trú sau hôn nhân là bên nhà gái. Trong hôn nhân, quan niệm của nhà trai là họ mất đi một người lao động đã trưởng thành, còn bên nhà gái họ thường tìm kiếm người đàn ông biết làm ăn và chăm lo cho gia đình. Luật tục của người Êđê quy định, khi vợ hoặc chồng chết, dòng họ phía người chết phải tìm một người thay thế người chết cùng với người còn lại chăm sóc những đứa con bất hạnh của họ và duy trì gia đình như trước đó. Vì thế, khi vợ chết thì chồng có thể lấy em vợ, chị vợ, còn khi chồng chết người vợ có thể lấy em chồng, anh chồng hoặc cháu chồng. Tính nhân văn của tục lệ này là giúp cho các em nhỏ và người già có nơi nương tựa, nó không những tạo sự liên kết giữa các thành viên với nhau mà tạo tính bền vững giữa dòng họ này với dòng họ khác.
2. Vai trò của tục nối dây trong luật tục
Người Êđê cho rằng tục nối dây là một tục lệ bình thường trong luật tục, được cộng đồng thực hiện nó một cách nghiêm túc, tự nguyện. Nếu có trường hợp người nối dây chênh lệch tuổi quá nhiều thì luật tục cũng cho phép họ chỉ là một cặp vợ chồng trên danh nghĩa. Vì thế trong luật tục quy định: Nếu người góa mà lớn tuổi, người nối dây còn nhỏ tuổi quá thì chưa thể làm vợ hoặc làm chồng được, khi đó người góa có quan hệ tình cảm với người khác thì cũng không bị xử phạt.
Về quy định tục nối dây sẽ được tiến hành sau nghi lễ an táng, các cuộc họp giữa ngày mới chết và ngày để họ tiến hành chôn cất người quá cố trong thời gian khoảng từ ba đến bảy ngày, trong thời gian này gia đình người chết sẽ tìm người nối dây cho người đàn ông hay người đàn bà còn lại. Phải xem người nối dây có đồng ý nối cùng với người goá vợ hoặc goá chồng hay không và ngược lại vợ hoặc chồng goá có đồng ý nối dây với người đó hay không. Thường thì người Êđê chỉ thích nối dây với người bà con trong thị tộc hoặc trong các dòng họ gần với mình, để thích nghi cho việc hôn nhân.
Đối với trường hợp người mất là người chồng mà trong dòng tộc vẫn không tìm được người nối dây trong dòng họ thì cần phải tìm một người con trai của dòng họ khác hoặc làng khác về làm con nuôi trong gia đình nhà trai và coi người đó như người ruột thịt trong gia đình. Sau khi tiến hành nối dây thì người nhà gái vẫn phải đưa của hồi môn cho dòng họ ruột của nhà trai, mà không phải đưa lễ vật cho gia đình nuôi người đàn ông.
Với trường hợp người mất là người vợ thì gia đình vợ sẽ tìm trong dòng tộc một người chị, hoặc em gái hoặc cháu gái của người vợ. Nếu gia đình không tìm được người trong gia đình để thay thế thì có thể tìm một người phụ nữ ở dòng họ hoặc làng khác để nối dây. Nhưng người phụ nữ này sẽ được gia đình người vợ quá cố mang một ít của cải sang nhà để mua lại cô gái này. Một số trường hợp người chồng không tìm được người thích hợp trong gia đình người vợ đã mất để cuê nuê thì sau khi làm lễ wăt trong ngày đưa tang để tách linh hồn của mình với vong hồn của người đã khuất; sau đó trở về gia đình của mình trước khi có vợ để sống cùng với chị gái hoặc em gái ruột.
Trong trường hợp khác thì khi người vợ mất, người chồng tạm quản lý tài sản và nuôi con khôn lớn, khi hết tang vợ thì người chồng lấy vợ khác, tài sản giao lại cho con và cho gia đình vợ. Còn khi họ chưa có con thì tài sản được giao lại cho bên vợ, người chồng không mang theo để lấy vợ khác. Về người đàn bà goá không có nòi để nối, muốn lấy chồng trong khi chưa bỏ mả người chồng chết thì gia đình chồng có thể cho tái giá.
Luật tục của người Êđê phân biệt rất rõ về điều kiện hôn nhân, nhất là sự phân biệt rõ về nguồn gốc huyết thống để tránh anh em trong cùng dòng họ lấy nhau. Những ứng xử trong cộng đồng gia tộc trước và sau khi diễn ra hôn nhân nối dây luôn được đặt trong mối quan hệ tự do dân chủ trong khuôn khổ quy định của luật tục. Hôn nhân của người Êđê luôn phải nằm trong sự ổn định và phát triển quyền lợi của gia đình, dòng họ. Hạnh phúc của những cặp nối dây luôn luôn được sự giúp đỡ của hai bên gia đình và cả cộng đồng người Êđê. Đó là văn hoá ứng xử xã hội được biểu hiện qua sự cảm thông, chia sẻ của hai gia đình, hai dòng họ, giữa bố mẹ và con cái. Đây cũng là nền tảng để xây dựng hạnh phúc gia đình lâu dài, xây dựng sự đoàn kết của hai gia đình, hai dòng họ và lớn hơn là sự đoàn kết của cả cộng đồng được bền vững.
3. Hôn nhân nối dây qua văn hoá dân gian của người Êđê
Hôn nhân nối dây được thể hiện trong các tác phẩm sử thi như: Đăm Săn, Đăm Tiông và Khing Jú.
Nhân vật Đăm Săn trong trường ca là một vị tù trưởng oai hùng, chống lại thần quyền chống lại luật tục. Đăm Săn không chịu nối dây, không thích công việc nhà vợ, có những nguyện vọng cao xa như đi bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ lẽ của mình. Tuy nhiên, xuyên suốt sử thi Đăm Săn là vấn đề nối dây và hôn nhân nối dây ở đây theo nguyên tắc ngoại hôn dòng tộc.
Hôn nhân nối dây ở trong tác phẩm sử thi Khinh Jú theo kiểu hôn nhân chị em vợ, chính H’bia Dâo là người đã phản đối gay gắt khi biết mẹ không gả H’Guê về làm vợ Khinh Jú theo tục lệ nối dây. Đó là do ý thức của việc thực hiện bảo vệ, duy trì hôn nhân nối dây. Phụ nữ người Êđê trong sử thi không chỉ là những người thực hiện nghiêm túc hôn nhân nối dây mà còn bảo vệ, duy trì, gìn giữ các quy tắc hôn nhân mẫu hệ nói riêng và phong tục tập quán của người Êđê nói chung.
Sử thi Đăm Tiông có cốt truyện là người anh hùng cướp vợ, mặc dù Đăm Tiông đã có vợ nhưng người anh hùng này vẫn muốn cướp người vợ mà cha mẹ hứa hôn từ khi anh còn bé và nó cũng có liên quan đến tục nối dây.
Trong sử thi, biểu hiện rõ nét nguyên tắc hôn nhân truyền thống của đồng bào Êđê, nhằm củng cố, thiết lập mối liên minh dòng họ thông qua nguyên tắc hôn nhân ngoại tộc. Hôn nhân nối dây được đề cập đến trong sử thi như là một cách để người ta có thể bảo vệ tuyệt đối các quy tắc hôn nhân truyền thống nói riêng và truyền thống mẫu hệ Êđê nói chung.
4. Tục nối dây trong văn hoá phi vật thể truyền thống của người Êđê
Với người Êđê  mối quan hệ thân tộc được tính theo dòng mẹ và quan hệ huyết tộc chi phối nhiều đến đời sống các thành viên trong tộc họ cũng như những công việc quan trọng của dòng họ đều được quyết định theo quy định của mẫu hệ. Trong mỗi làng thường có nhiều dòng họ sinh sống. Trong dòng họ có một người lớn tuổi nhất sẽ đứng đầu dòng họ. Đây được gọi là quần cư thân tộc mà đặc trưng của nó là theo huyết thống bên mẹ, quần cư này gồm có từ 50 đến 150 gia đình. Mỗi dòng họ phải có một người lớn tuổi, có uy tín, và luôn có trách nhiệm với dòng họ mình. Các thành viên trong làng có việc gì cần cầu xin, báo tin vui, cảm ơn tổ tiên phải đến gặp già làng để làm lễ.
Mỗi dòng họ của người Êđê đều có nghĩa địa chung hay còn gọi là nhà mồ, những người có quan hệ huyết tộc theo dòng mẹ khi chết được chôn phía nhà mẹ, đối với những người đàn ông có vợ thì khi chết cũng được chôn ở khu nhà mồ bên vợ.
Trong dòng tộc thì văn hoá mẫu hệ còn thể hiện ở vai trò của người cậu trong gia đình, trong dòng tộc. Vai trò người cậu tức là người anh (em) trai ruột của mẹ, anh em bà con cùng huyết thống dòng họ bên mẹ được đề cao và vẫn còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình người Êđê. Khi gia đình có sự bất hoà giữa các thành viên với nhau thì người cậu được mời đến để giải quyết.
Tập tục quy định quyền người cậu là biểu hiện tàn dư của tập tục mẫu hệ, ngoài thể hiện trong việc xét xử, giáo dục trong dòng tộc còn tồn tại trong việc cưới vợ hay gả chồng cho cháu mình. Gia đình hai bên trai gái khi cần lo dựng vợ gả chồng cho con cái đều phải hỏi ý kiến của ông cậu, nhiều lúc ý kiến đó lại có ý nghĩa quyết định. Những tặng phẩm trong lễ hỏi và lễ cưới thường được trích ra một phần tặng cho ông cậu. Trong vài trường hợp đặc biệt, những đứa trẻ mà mẹ đã chết, không ở với cha thì ở với cậu, và người cậu có quyền nuôi dạy, và có trách nhiệm hoàn toàn về mọi mặt đối với đứa cháu ruột theo huyết thống dòng họ mẹ.
Dòng tộc của người Êđê là dòng tộc mẫu hệ là mối quan hệ chị, em gái- anh, em trai. Mặc dù người con trai khi đi lấy vợ và ở nhà vợ nhưng vẫn quan tâm đến những việc của dòng họ mình và vẫn giữ vai trò điều khiển. Và những người đàn ông được cho là lãnh đạo cao nhất trong xã hội mẫu hệ. Hàng năm thì già làng vẫn tập hợp các thành viên của dòng tộc như đóng góp hoặc phân chia tài sản của dòng tộc. Tài sản của dòng tộc chủ yếu nằm trong tay người phụ nữ người chủ của gia đình
Hôn lễ của người Êđê xưa, tập tục mẫu hệ bao trùm lên phong tục tập quán hôn nhân của người Êđê, từ những quy tắc về hôn nhân đến những nghi lễ cưới xin.
Theo luật tục thì người Êđê cấm kết hôn với những người cùng họ với mẹ, dù xa nhau mấy đời cũng không được lấy nhau, theo đó những người cùng dòng họ, cùng thờ chung tổ tiên thì không được lấy nhau vì đó là những người cùng dòng máu, tính theo huyết thống bên mẹ.
Kết hôn phải có sự đồng ý của hai bên tộc họ. Nếu hôn nhân không có sự chứng kiến, đồng ý của tộc họ thì bên nhà trai và nhà gái sẽ bị làng phạt vạ bằng trâu, bò và các tài sản khác. Trong kết hôn thường thì người Êđê sẽ trải qua những giai đoạn làm lễ như:
Mẫu hệ quy định nhà gái sẽ là người đi hỏi cưới chồng, và trong phong tục nối dây thì nhà gái vẫn phải một lần nữa đưa ra các lễ vật để tiến hành đám cưới.
Hình thức cưới bình thường: Văn hoá mẫu hệ trong nghi lễ cưới xin của người Êđê cũng có nét tương đồng với một số tộc người thiểu số khác có nguồn gốc Nam Đảo như ở người Chăm và Raglai thì nhà gái đưa chồng về, chồng sang nhà vợ ở rể, huyết thống được tính theo dòng họ mẹ, vai trò thừa kế thuộc về người phụ nữ. Ở người Churu và Jarai thì người phụ nữ được tôn vinh, là người thừa kế của gia đình, dòng họ bên phía mẹ. Người phụ nữ luôn chủ động trong hôn nhân, sau lễ cưới cô dâu phải ở lại nhà chồng nửa tháng chờ lễ đón rể về cư trú bên nhà gái.
Cư trú sau hôn nhân nối dây: Người Êđê theo chế độ mẫu hệ, nên sau lễ cưới cô dâu và chú rể cùng về cư trú bên nhà chồng, với người Êđê thì người ta quan niệm con rể phải về ở bên nhà vợ làm ăn cùng nhà vợ, cùng gia đình vợ lao động sản xuất, làm ra nhiều của cải, sinh con đẻ cái, xây dựng gia đình và là thành viên chính thức của gia đình vợ. Hiện nay gia đình của người Êđê vẫn tuân thủ theo nguyên tắc này. Sau lễ cưới tất cả của hồi môn của hai vợ chồng đều được cất ở nhà vợ.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét