SINH HOẠT ĐỐ VUI CỦA NGƯỜI ÊĐÊ
1. Đố vui là một loại hình sinh hoạt dân gian không mang tính
chất vùng miền hay của một nhóm tộc Êđê nào, mà là một loại hình sinh hoạt văn
hóa khá thịnh hành trên hầu khắp môi trường sinh tồn của cộng đồng các buôn làng
Êđê xưa và nay.
Trong xã hội tộc người Êđê, phần lớn sinh hoạt đố
vui được nảy sinh một cách ngẫu nhiên. Chỉ cần một trong hai (hoặc trong một nhóm
đông) người ngẫu hứng khởi xướng gieo một câu đố thì người khác trong đám hưởng
ứng xúm nhau tìm đáp án hoặc câu đố khác có cùng đáp án để giải đố. Vì thế không
gian và thời gian sinh hoạt đố vui cũng nảy sinh bất kỳ.
Không gian có thể là dưới mái chòi trên nương rẫy
hay dưới tán cây nơi bến nước hoặc ngoài lán trại nơi mộ địa… Còn thời gian có
thể là trong dịp lễ ăn cơm mới, ở nhà mới, lễ cúng đời người, cưới hỏi hay nơi đám
ma… Ở đâu và lúc nào cũng có thể nảy sinh cuộc sinh hoạt đố vui mà không sợ vấp
phải những điều kiêng kị như ở một số trò vui khác.
Không gian và thời gian lý tưởng nhất cho sinh
hoạt đố vui là vào đêm hội đạp lúa. Hội này đã từng hiện hữu và tồn tại trong các
buôn làng Êđê từ thời xa xưa cho đến đầu thập niên sáu mươi thuộc thế kỷ XX. Nó
mất đi vì chính sách “Ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy. Hội đạp lúa thường được
sinh hoạt vào đêm trăng rằm mùa chớm rét, tuốt hái vừa xong, mùa mưa cũng vừa cạn.
Nhiều hộ vì lo lúa chín rục, nên lúa sau khi cắt, họ chất thành đống tròn, ngọn lúa hướng vào trong vòng
để tránh heo rừng ủi, chân rơm phía ngoài. Sau khi tuốt, họ quay lại gom công đạp
lúa. Thường thường ngày hội được khai bằng hội ăn cơm mới ở trong một cái lán
trại che lợp bằng rơm ngoài rẫy vào buổi sáng. Đến tối trăng sáng họ mới khai hội
đạp lúa băng lễ cúng lúa. Trên thực tế, lúa đã được đạp vào ban ngày của hôm đó.
Tối là buổi sinh hoạt uống rượu và thư giãn sau một mùa rẫy với nắng mưa. Cánh đàn
ông đứng tuổi sau khi râm ran say điệu K’ưt và men rượu cần ngọt, cay họ
xoay qua đố vui để thử tài quan sát và nhận biết sự vật với nhau. Thế là mọi người
đều xúm xít quây quần bên bếp hồng và dưới ánh trăng lọt trong từng khe mái lán
bằng rơm với những câu đố, rôm rả tới sáng.
Tuy nhiên phần lớn sinh hoạt đố vui thường được
nảy sinh ở dưới ngôi nhà sàn dài hay dưới lán trại nơi đám ma. Người Êđê theo tín
ngưỡng “vạn vật hữu linh”. Họ tin mọi sự vật đều có thần linh ngự trị, điều hành
giám sát và thưởng phạt. Thần có mặt ở mọi lúc mọi nơi. Mọi hành vi của con người
đều có sự vật xung quanh giám sát. Làm việc gì hợp với ý thần thì thần khen thưởng,
làm trái với ý thần thì thần phạt. Từ quan điểm tín ngưỡng này, người Êđê tin cái
chết của con người đều do thần linh và ma quỉ áp đặt. Thần linh có thể mang hồn
người đưa vào cõi chết hoặc do ma quỉ ganh ghét hớp hồn gửi cho thần mang đi để
lại xác cho ma quỉ xâu xé. Nên khi linh cữu người chết còn trong nhà, ma quỉ có
thể hiện hình hay dùng ma lực phá phách, cướp xác ăn thịt. Vì lẽ đó, một khi
trong buôn có người chết thì cả cộng đồng buôn xa, buôn gần, thân hay sơ đều đến
tập trung thức canh và chia buồn đồng thời chia xẻ công việc mai táng cùng tang
gia. Đến với đám ma, mọi người đều sẵn lòng góp vui tham gia vào các trò chơi lành
mạnh. Trong đó có cuộc đố vui là trò chơi được nhiều người và đủ thành phần già
trẻ tham gia một cách vô tư, vui vẻ và sôi động. Sinh hoạt đố vui làm cho không
gian và thời gian nặng nề trôi đi, con người trở nên hoạt bát, hồn nhiên và bộc
lộ nhiều hiểu biết, nỗi ưu phiền bỗng dưng vơi đi trong mỗi con người…
Đố vui luôn gắn liền với không gian và thời
gian sinh hoạt cộng đồng. Chức năng của sinh hoạt đố vui không chỉ là giải trí
tinh thần mà còn có chức năng truyền đạt những nhận biết về sự vật, giáo dục nhân
cách và kỹ năng sử dụng ngôn từ.
2. Nhìn chung, dù đố một vật hay việc nào, nội dung câu đố
thường chỉ phản ánh những tính chất và đặc điểm của vật, sự việc trong thế giới
tự nhiên và trong xã hội loài người. Có những câu đố có nội dung vừa ngắn lại vừa
giản đơn. Thoạt nghe đã có thể lĩnh hội và hình dung được ngay đó là vật gì.
Ví dụ: Đi ngang ngáng, cái đầu chẳng có, chỉ
có cái sừng (con cua)
Trong câu đố, người đố chỉ nói tới dáng đi quen
thuộc của con vật có cái đầu không lộ ra mà chỉ lộ rõ cái sừng.
Hoặc: Cái đít chổng lên
trời, cái môi bám đất, ăn chất bùn chất bẩn (con ốc).
Từ hình ảnh “đi ngang” ở câu đố một và hình ảnh
“đít chổng lên, môi bám đất” ở câu đố hai trong các ví dụ trên là hình thái của
vật đố. Nhưng đã chắc gì cả mọi người trong chúng ta tìm được đáp án.
Trong câu đố có nội dung ngắn, từ ngữ gợi hình
vật đố rất rõ mà vẫn có người không tìm ra đáp án thì với câu đố có nội dung hoàn
toàn ẩn khuất như câu đố dưới đây:
Hàng
trăm, hàng nghìn người cùng vác một cành cây.
Hình ảnh của vật đố được ẩn dụ trong trăm nghìn người vác một cành cây. Vậy đố
ai trong chúng ta tìm được đáp án đó là gì (bầy ong).
Còn câu ví dụ sau:
Mùa
rét ướt chúng tôi ở trong tranh,
Mùa
nắng hanh chúng tôi ở trong rừng thưa,
Khi mùa mưa đến chúng tôi vào rẫy, lên chòi tìm ăn.
Câu đố này chỉ biểu đạt tập tính của vật đố mà
không đả động tới đặc điểm hình thái của vật đố. Nhưng dựa vào từ “chúng tôi” và
tập tính thường thay đổi nơi ở theo mùa cho ta đoán chắc đây là câu đố về một
loài động vật sống bầy đàn. Vậy loài vật sống đàn có tập tính thay đổi nơi ở
theo từng mùa như vừa cho biết là loài gì mới là câu hỏi hóc búa cho người giải
(bầy kiến).
Nhưng câu đố này chỉ hóc búa với những ai chưa
từng biết đến loài vật đó, hoặc đã biết được loài vật đó nhưng lại không nhận
biết tập tính của nó. Còn những người đã từng trải nghiệm thì câu đố sẽ không còn
ẩn nghĩa.
Một ví dụ khác: Héo hắt lửa đang cháy gốc rụi/
Thoi thóp lửa đang cháy bụi khô/ Lửa muốn cháy to mà không phát bùng/ Là lửa của
mình thắp chứ đâu phải lửa của thần cho.
Cụm từ “lửa mình tự thắp”, ánh lửa vừa héo hắt
lại vừa thoi thóp nghĩa là khi cháy, khi tắt, khi hiện rõ, khi mờ trên một vật
rụi, vật khô. Lửa tự thắp và vật rụi, vật khô có liên quan mật thiết với nhau là
điểm mấu chốt cho ta hình dung và đoán chắc câu này là câu đố về một việc do
con người làm ra. Nhưng là việc gì? Ẩn nghĩa của câu nằm trong cụm từ “lửa của
mình tự thắp” (hút thuốc).
Đôi khi, nội dung câu đố rất
dài, nhiều vật và việc phức hợp và có sự liên quan mật thiết với nhau như trong
câu đố về hoạt cảnh “ngày gieo hạt” dưới đây:
Đường kéo đà thẳng tắp/ đường lôi đà thẳng băng/
đất trời mây ảm đạm./ Thấy đâu đà dọc, ngang/ chỉ thấy trời u ám/ có đâu đà
ngang, dọc/ chỉ thấy trời ảm đạm/ đã đến năm, tới mùa/ những chàng trai điên khùng/
tay chống hai cây gậy/ đi đi rồi lại lại/ mắt nhìn xuống đôi chân/ đi tây rồi
sang đông/ những chàng trai cầm bút/ không đông, nhưng chẳng ít/ mải miết ghi hàng
chữ/ mải mê ghi hàng số/ dạy những cô con gái/ biết đếm số dọc ngang./ Các cô gái
cãi lại:/ “Chúng tôi có thua gì!/ tay trái chống đất/ tay phải tra hạt/ tờ công
văn/ chúng tôi cũng nhận ra./ Chỉ lo/ những chàng trai các anh/ viết chữ Miên
hay thừa/ viết chữ Lào hay dư”./ Đây, một ché rượu cần/ đã đặt trên đỉnh mộ/ miệng
đã chạm hai cây/ chống thần bên Tây/ lo đỡ thần suối rừng/ những nữ thần đỏ đen/
hay mắng chửi chúng ta.
Trong câu đố tuy các từ, các câu đều biểu thị hình
ảnh trong ngày gieo hạt như: “hàng kéo đà ngang, đà dọc” là đường vạch dọc,
vạch ngang cho hàng lúa thẳng đều; “đất trời mây ảm đạm” biểu thị thời
tiết trong ngày gieo hạt bầu trời thường u ám; tiếp theo là hình ảnh của những
chàng trai tay cầm hai cây chọc lỗ cho ra hàng ra lối dọc ngang: những chàng
trai điên khùng/ tay chống hai cây gậy/ đi đi rồi lại lại/ mắt nhìn xuống đôi
chân/ đi tây rồi sang đông. Hay hình ảnh: những chàng trai cầm bút…/ dạy
những cô con gái/ biết đếm số dọc ngang. Nói với những cô gái tra hạt nhìn
kỹ không nên lỡ tay bỏ sót một lỗ nào. Các cô tra hạt tỏ ra sành việc cãi lại:“Chúng
tôi có thua gì!/ tay trái chống đất/ tay phải tra hột/ tờ công văn/ chúng tôi cũng
nhận ra./ Chỉ lo/ những chàng trai các anh/ viết chữ Miên hay thừa/ viết chữ Lào
hay dư”. Cụm từ “viết chữ Miên hay thừa”, “viết chữ Lào hay dư”. Là
lời của các cô gái nhắc nhở những chàng trai chọc lỗ không nên chọc thiếu lối,
thừa hàng khiến cho các cô bỏ quên tra hạt.
Bên cạnh hình ảnh những chàng trai chọc lỗ, cô
gái tra hạt có hình ảnh ché rượu cúng thần lúa, thần đất, trời, sấm chớp buộc
trên gò đất: một ché rượu cần/ đã đặt trên đỉnh mộ/…/ lo chống thần bên tây/
lo đỡ thần suối rừng/ những nữ thần đỏ đen. Những hình ảnh rất quen thuộc với
mọi người, nhưng cũng có không ít người đoán đúng. Vì những hình ảnh trong câu đố
đều là hình ảnh ẩn dụ. Người giải đố thiếu tri thức ngôn ngữ nên bài đố trở nên
hóc búa. Đó là chưa nói tới những người thiếu quan sát và nhận biết sự vật hoặc
đối với những người chưa từng chứng kiến hoạt cảnh “ngày tra hạt” bao giờ.
Cũng có những câu đố, tác giả không nêu ra tính
chất và đặc điểm về tập tính, hình thái, âm thanh, màu sắc hay mùi vị nào mà chỉ
nêu vị trí cố định của sự vật. Nhưng, với vốn liếng tri thức nhận biết sự vật và
tri thức ngôn ngữ phong phú của bản thân mà tìm ra đáp án:
Trăm trái trên cây
Nghìn trứng dưới nước
Quả giữa thân
mỗi
bên một quả.
Đây là một câu đố về ba sự vật khác nhau nhưng
có cùng một tên gọi (đồng âm khác nghĩa: tên một loài cây, con cá trê, xương đầu
gối; tiếng Êđê cùng phát âm kênh).
Cũng có những câu đố mà thế hệ ngày nay không
thể giải đáp được, như: Chẳng một ai biết/ nơi mẹ nó sinh ra./ Chẳng một ai
hay/ nơi cha nó đúc nên./ Nó vừa tròn nhẵn/ vừa thấp lùn/ hai đầu đúc kín/ dính
liền với hông./ Mường tượng/ như đồ trẻ con chơi./ Nên con gái mới nói:/ “Để
con cất vào rổ;/ để con dọn vào bao/ cho cháu con sau này”/ Bố nói:/ “Nào có phải
của hiếm đâu con./ Con hãy đi con đường rẽ trái/ là đường đi buôn Dha/ con hãy đi
con đường rẽ phải/ là đường đi buôn Cuôr Hdang/ con sẽ thấy nó/ nhan nhản như cùi
bắp”.
Hình ảnh Nó vừa tròn nhẵn, vừa thấp lùn,
hai đầu đúc kín, dính liền với hông không đủ để nhận dạng một đồ vật. Kể
cả lời đối thoại giữa hai cha con với nhau cũng không mường tượng đó là vật gì
nếu người ra câu đố không giải thích: “Vào những năm thập niên 50 lon sữa bò xuất
hiện trên các hè đường phố. Người mình nhặt về để làm gáo múc nước hoặc rót rượu
thay ống nứa hay sừng trâu như người xưa vẫn thường dùng. Dùng xong họ cất giữ
như vật quí hiếm để còn có cái dùng sau này. Vào những năm đó bãi rác thị xã Buôn
Ma Thuột nằm bên đường vào Buôn Dha và Đạt Lý bây giờ”. Tất nhiên, khi hiểu ra,
người từng trải phải “Ô” lên công nhận và khâm phục “câu đố quá là thâm nhưng rất
chuẩn xác” khi nhớ lại. Còn với người chưa từng trải qua thời kỳ đó thì cố gắng
lĩnh hội để làm vốn cho mình.
Cũng có nhiều câu đố khác nhau nhưng có chung một
đáp án. Do vậy mới có hiện tượng giải đố bằng những câu đố. Nhất là khi trong
cuộc sinh hoạt đố vui có nhiều kỳ phùng địch thủ giàu vốn liếng câu đố. Họ thường
đố, đáp nhau bằng những câu đố tưởng chừng như không bao giờ cạn.
Ví dụ: Đi ngang ngáng, cái đầu chẳng có, chỉ
có cái sừng.
Người khác giải câu đố này bằng cách đố lại bằng
một câu đố khác: Cái thân nó dẹt, tròn như trái “ké”./ Rằng lễnh khễnh như răng
con cào cào./ Đôi mắt lồi,/ mang cặp đao
sắc như lưỡi cưa./ Còn mặc váy áo thì trông ra dáng./ Nhưng khi cởi váy áo ra/
nó chỉ còn lênh khênh một bộ xương.
Một người khác nữa sau khi
lĩnh hội hai câu trên liền đưa ra đáp án bằng một câu đố khác: Ăn thì cứng,
nướng thì đỏ, lỗ hang thẳng đứng như hang cua.
Trong câu đố lại đã có từ
của “đáp án”. Thế là cuộc đố trở thành cuộc hội thoại bằng những câu đố. Nhờ vậy
mà cuộc sinh hoạt đố vui trở nên hấp dẫn.
Cuộc sinh hoạt đố vui càng trở nên hấp dẫn hơn
khi trong cuộc đố có những người anh em sui gia với nhau mà ra câu đố tục. Vì
trong xã hội cổ truyền cũng như xã hội Êđê ngày nay, giữa những người anh em
sui gia không được tục tằn với nhau. Cho nên khi nghe nói lời tục tằn trước mặt
nhau là bắt vạ nhau. Hình phạt là người nói tục phải hiến cho người nghe một ché
rượu. Vì “một ché rượu phạt”, có người nhân sinh hoạt đố vui đã cố ý tục tằn để
được hiến “một ché rượu phạt” cho người anh em sui gia lâu ngày không dịp vui với
nhau. Thế là, từ câu đố tục, họ bắt chẹt nhau. Cuộc đố vì thế trở nên hưng phấn
và gay cấn hơn.
Trên thực tế có rất nhiều câu đố nghe rất tục tằn
nhưng câu giải thì rất thanh được lưu truyền. Ví dụ: Cây vừng đàng tây/ Cây
me đàng đông/ Đàn bà nằm ngửa/ Đàn ông chồm xuống, chồm lên (Động tác mài
dao).
Hay: Eo thon, l… to, con cái nhà giàu muốn
thọc là thọc (Cái cối giã gạo).
Có câu đố nghe rất thanh nhưng khi giải thì tục,
cũng có câu đố tục, giải tục như của các dân tộc khác (mà không tiện nêu ra
trong bài viết này).
Với lối nói ẩn dụ và chỉ phản ánh khái quát đặc
điểm và tính chất hình thái, tập tính… của sự vật, nội dung câu đố của người Êđê
trở nên đa dạng và phong phú. Một vật đố có thể đố bằng nhiều câu khác nhau và
ngược lại một câu đố có thể đố nhiều vật khác nhau.
3. Câu đố là một thể loại văn học dân gian Êđê. Cũng như các
thể loại văn học dân gian khác của người Êđê, câu đố thường được thể hiện bằng áng
văn vần mà người Êđê gọi là duê.
Duê là một loại hình ngôn từ nghệ thuật thể hiện mọi thể loại
nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ. Duê được sáng tác bởi tri thức quan sát
và nhận biết sự vật của nhiều thế hệ trí tuệ trong cộng đồng, được cộng đồng đúc
kết, lĩnh hội và truyền đạt từ đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng nọ,
từ miệng người này sang miệng người kia. Duê là những câu nói có độ dài
ngắn khác nhau và có sự liên kết với nhau bằng những từ có âm tiết vần hoặc từ
có âm tiết tương đồng và bằng các từ hay các cụm từ có nhịp đối đăng. Các câu đơn
trong lời duê mang tính độc lập tương đối và có nội dung không đầy đủ nếu
chúng không liên kết với nhau bằng các cặp từ có âm tiết vần hay bằng các cặp từ
có âm tiết tương đồng và các cặp cụm từ đối đăng.
Ngoài lối cấu trúc liên kết các câu đơn với
nhau bằng vần, duê còn có một số
thủ pháp diễn đạt nghệ thuật như thủ pháp ẩn dụ, so sánh, thủ pháp ví
von, bóng gió… Thủ pháp ẩn dụ là thủ pháp quan trọng và thâm thúy nhất trong các
thủ pháp nêu trên.
Hầu hết các câu đố đều dùng thủ pháp ẩn dụ. Cho
nên đôi khi người ta cũng chấp nhận vài dăm câu đố diễn đạt bằng các câu không
vần.
Ví dụ: Ăn uống bằng miệng/ Cứt đái bằng miệng/
Chuyện trai gái bằng miệng/ Sinh đẻ cũng bằng miệng/ Sinh đẻ trên cây/ Sống ở dưới
nước.
Nhờ thủ
pháp ẩn dụ mà nội dung câu đố luôn mang tính ẩn nghĩa cao, có sự phát triển và
sinh tồn với số lượng phong phú và đa dạng. Có nhiều câu đố đã được lưu truyền
và trở nên phổ biến trong dân gian.
4. Sinh hoạt đố vui là một loại hình sinh hoạt lành mạnh có
giá trị nhân văn xã hội và nghệ thuật sâu sắc.
Trước tiên phải nói tới giá trị nhân văn xã hội.
Tham gia sinh hoạt đố vui là chia sẻ tự nguyện, vừa cống hiến hiểu biết về sự vật
của mình cho cộng đồng, vừa lĩnh hội những hiểu biết về sự vật của cộng đồng.
Con người luôn khao khát hiểu biết đầy đủ về thế giới tự nhiên đầy huyền bí và
cuộc sống xung quanh mình. Sinh hoạt đố vui cũng là dịp điều chỉnh hoặc bổ sung
những hiểu biết của mình về sự vật. Câu đố của chính mình hoặc câu đố của người
khác nhờ vậy ngày càng trở nên hoàn chỉnh và mỹ mãn hơn. Sinh hoạt đố vui là
chia sẻ và mở rộng thêm tầm quan sát và nhận biết sự vật xung quanh thông qua
ngôn từ đố vui. Đồng thời tham gia đố vui cũng là dịp ôn luyện kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ của mình, học hỏi những kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của người xung quanh.
Nhiều khi ở mỗi con người chúng ta, ai cũng có tầm hiểu biết nhất định, nhưng
thường lúng túng khi trao đổi hiểu biết với nhau bằng ngôn từ, nhất là ngôn từ
nghệ thuật như câu đố. Sinh hoạt đố vui là góp công làm giàu tiếng mẹ đẻ. Từ đó
làm đa dạng và phong phú hóa di sản văn hóa và bản thân ngôn ngữ của dân tộc mình.
Vì mục đích chia buồn cùng tang gia, sinh hoạt đố vui cũng là dịp để mọi người
xích lại gần nhau. Mọi thái độ đố kị, cố chấp hẹp hòi và hành vi mặc cảm hay kiêu
ngạo thái quá đều phải tránh. Những quan điểm vụ lợi, thái độ hiềm khích, mặc cảm
thân sơ, giàu nghèo, chênh nhau đẳng cấp xã hội, tuổi tác… đều không được chấp
nhận. Sinh hoạt đố vui là quá trình giáo dục và tự giáo dục bản thân trau dồi
nhân cách xã hội.
Thứ đến phải nói tới giá trị nghệ thuật. Nghệ
thuật thể hiện rõ nét nhất trong sinh hoạt đố vui là nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Trong hầu hết các câu đố, dù dài hay ngắn, đều sử dụng loại hình ngôn từ của duê
và các thủ pháp nghệ thuật. Một loại hình ngôn từ nghệ thuật dân gian Êđê đã được
lưu truyền, sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong quá
trình cấu thành những tác phẩm văn học dân gian.
Trong
sinh hoạt đố vui cả người ra câu đố và người giải đố đều là đối tác giáo dục của
nhau. Họ vừa trao đổi vừa kiểm tra khả năng quan sát và nhận biết sự vật của
nhau thông qua ngôn từ câu đố. Đây là một phương thức giáo dục mang tính qui phạm
tự nguyện có hiệu quả rất cao và đem lại lợi ích cho cả hai bên và cả cộng đồng;
mọi người đều ứng xử một cách bình đẳng, ôn hòa, vui vẻ, hoạt bát, thân thiết và
gần gũi với nhau.
5. Với loại hình sinh hoạt văn hóa lành mạnh, mang tính nhân
văn sâu sắc và tính nghệ thuật cao như sinh hoạt đố vui, trước thực trạng hiện
nay, sinh hoạt đố vui tại hầu khắp các buôn làng đang thưa dần; nhiều nghệ nhân
giàu vốn câu đố, số đã qui thần, số đã già nua, đi lại khó khăn và mất vốn dần
theo tuổi tác, nhiều câu đố có giá trị vì thế mà mai một. Thiết nghĩ, mỗi người
trong chúng ta phải suy nghĩ và có hành động cụ thể để giữ gìn và phát huy giá
trị sinh hoạt đố vui và những nội dung câu đố bằng nhiều phương thức, đặc biệt
là tạo điều kiện để nó có cơ hội tự thân vận động.