NHÂN VẬT BÀ CÔ THỊ NỞ
TRONG TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO”
CỦA NAM CAO
Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo
là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam
trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa
vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11,
tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác
gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.
Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện
ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy
làm nhan đề tác phẩm mình (“lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch
cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi
lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc
xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo” - Ngữ văn
11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục). Đã có không ít những công trình, bài
viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây
là điều tất yếu. Bởi “toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát
ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo” (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua
truyện ngắn “Chí Phèo” bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c
Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo “là kết tinh những thành công của Nam Cao
trong đề tài nông dân” (Nguyễn Hoành Khung trong Lịch sử văn học Việt
Nam, tập 5, phần II, NXB Giáo dục, 1978).
Bên cạnh Chí Phèo còn có một hình tượng nhân vật điển hình
nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần
cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự
chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật
trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân
vật bà cô Thị Nở.
Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ.
Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phác thảo sơ lược
vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn : “…, trừ một người cô đã có
thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người
đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm
Phả”. Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ
họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với
Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và “nghĩ bụng: hãy dừng yêu
để hỏi cô thị đã” thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và
hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.
Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà
cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ
câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn “Đã
nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” đã
đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, “ngẩn
ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” và dở hơi, ế
chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu
vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài
người. Bát cháo hành “mới thơm làm sao” chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ
quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết
cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và
cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít
nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết
thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi
chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng
vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó
trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý
nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.
Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của
dân gian “giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng” (Còn có dị bản “giặc
bên ngô không bằng bà cô bên chồng”). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa
cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn
khổ ấy, chuyện chồng con của “con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời”
“sao mà đĩ thế ! Thật đốn mạt… Nhục nhã ơi là nhục nhã”. Thái độ giãy nảy
lên, những lời cay độc, “xỉa xói vào mặt con cháu gái” đã có hiệu quả
ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất
ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà
còn “chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến”. Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân
vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận
trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi uẩn ức tính nữ cả về tâm lí
lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ “không ăn được thì đạp đổ”, “trâu
buộc ghét trâu ăn”. Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có
thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người
đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo
Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng
khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết: “Cũng có lẽ tủi
cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua
xót lắm…” Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ
không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công,
ngang trái không thua gì xã hội trước đó.
Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông
dân ở “làng Vũ Đại ngày ấy” nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng
1945 nói chung. Đó là “một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực,
tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là
quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm
loại)” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại,
in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm
trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong “cái làng
đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ” (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống
quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định
kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ,
không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí
Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ
Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”, coi như Chí không hề tồn tại
trong cộng đồng “người” ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những
quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao
ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên “thèm lương thiện”, “muốn
làm hòa với mọi người biết bao”, tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được.
Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót
xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho
làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945.
Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc
hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển
hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện “vợ chồng” với
Chí: “Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không
cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ” cũng
như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ
được của Chí: “Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo” đã nói
lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn
ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc bộ trước 1945 còn mang
nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.
Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật
bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo,
Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như
trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân
vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức
ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ.
Tuy nhiên suy cho cùng, nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận,
của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét.
Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị
nhân văn của Nam Cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét