HỎI TÂY NGUYÊN CÓ BUỒN?
Bút ký
Trái ngược với mùa khô
khiến những dải đất và núi đồi hoe vàng cỏ cháy, Tây Nguyên tháng 6 đang vào
mùa mưa, đâu đâu cũng xanh mướt một màu. Từ miền Trung nắng gió khô hanh, chạm
đến cao nguyên đã bắt đầu se lạnh, vào tối bất chợt mưa rào. Nhâm nhi cà phê
đặc sánh chỉ có ở vùng đất đỏ bazan bạt ngàn bỗng như hòa với thiên nhiên làm
một, hay đó là cảm giác được trở về quê mẹ xa xăm.
Tây Nguyên có 3 thứ độc
mộc, cấu thành bản sắc văn hóa đặc sắc, là k’pan, trống độc mộc và thuyền
độc mộc. Những loài gỗ chủ yếu thường dùng là cây sao, cà chít. Cây cà chít
cứng, không dẻo bằng sao, lại nhiều thớ, có mắt nên dễ bị mục mắt khiến nước
vào, thường chỉ dùng làm k’pan và trống. Bây giờ loài sao đã bị đốn hạ quá
nhiều, nhất là những cây có đường kính từ mét rưỡi trở lên. Đỉnh Chư Yang Sin
là khu rừng hoang sơ hiếm hoi bậc nhất còn lưu giữ nhiều loài gỗ quý, sừng
sững. Người dân sở tại cho hay nếu một người khỏe mạnh phát đường leo đến đỉnh
cũng phải mất ba ngày. Cây sao hội đủ ba yếu tố cơ bản của thuyền độc mộc: chịu
mưa nắng ngoài trời, thẳng tưng và rất nhẹ. Thuyền độc mộc non mỏng manh rùng
rình song người chèo đò bảo phải hai người lăng mới dìm nổi nó, và nếu ngập
nước cũng dễ nổi. Bằng kỹ thuật và sự hỗ trợ của máy móc, mỗi cây sao làm
thuyền độc mộc người ta sẽ xẻ lòng tận dụng được nguyên phần ròng của nó. Thử
hình dung, xưa đồng bào chỉ dùng cây rìu để đẽo, vậy là phần ròng cây gỗ bị băm
vụn, rất tốn kém và uổng phí. Nói vậy để thấy bây giờ làm thuyền độc mộc cũng
cần thiết, để lưu giữ một bản sắc có tính thực dụng cao. Dĩ nhiên, những chiếc
thuyền được đồng bào đẽo từ xưa bao giờ cũng quý hơn hết. Ở buôn Jun hiện còn
hơn chục chiếc độc mộc rất xưa, ngoài chở khách tham quan còn là phương tiện
mưu sinh sông nước của người dân. Nhiều lúc vắng khách, lũ trẻ lại bơi chèo đùa
nghịch, và từng chiếc độc mộc buông neo trông thật lẻ loi giữa viền trời xanh
thẳm. Thật khó tả cảm giác bồng bềnh đi thuyền độc mộc trên hồ Lăk từ bên này
bờ của buôn Jun qua bên kia, thuộc buôn M’Liêng. Cuốc bộ thêm một đoạn sẽ được
thấy những ngôi mộ cổ, đánh dấu tập tục của người Êđê thuở trước. Sau một năm,
khổ chủ sẽ làm lễ bỏ mả, tức từ đó không người thân nào còn đến thăm mộ nữa,
những ngôi mộ thành vô chủ, trở về với núi rừng bờ bụi. Thế nên không ngạc
nhiên khi những lùm cây mọc kín trên những ngôi mộ cổ và nếu không được người
dân sở tại nhận diện sẽ khó thể nhận ra hình dáng của những ngôi mộ buồn tủi đó
nữa.
Tượng nhà mồ là nét tinh
hoa góp phần tạo nên hồn cốt Tây Nguyên. Để tìm một bức tượng nhà mồ đẽo từ mấy
chục năm về trước là hiếm. Nhà mồ nay xây xi măng, nhiều ngôi có cả cửa kính,
gạch hoa lót nền. Có những khu mộ nhìn xa hay chụp ảnh, ngỡ là khu dân cư sầm
uất, không tin nổi đó lại là cõi âm. Tượng nhà mồ vắng bóng. Một số điểm du
lịch sinh thái vẫn thuê các điêu khắc gia tạc tượng nhà mồ phục vụ khách thưởng
lãm. Thú thật, nó chỉ gợi lên chút hoang sơ sót lại của rừng già, chứ không thể
chạm tới mảng phiêu du đầy ngẫu hứng hút cả nỗi buồn cõi thế. Người thợ vốn là
con dân bản, tạc tượng bằng rìu và chỉ dùng đục sửa nguội chút ít. Họ đẽo bằng
linh cảm, bằng trực giác với những nét thô song nhìn vào như rệu rã, như thấy
thế giới tan chảy trong đôi mắt thẳm sâu mang thông điệp về sự vô thường. Loại
tượng này dựng ngoài trời, bên các ngôi mộ, đòi hỏi phải dùng loại gỗ có sức
chịu đựng nắng mưa ít nhất trên chục năm trời. Những bức tượng mới được đẽo
không còn nguyên hồn cốt, lại dùng gỗ thuộc nhóm hai nhóm ba, trong lúc loại tượng
cũ hư hao dần qua thời gian và mất trộm. Nhiều tay chơi sớm phát hiện ra giá
trị nghệ thuật tâm linh và còn là giá trị từ chính khúc gỗ của tượng, đã lấy
trộm và tẩu tán theo nhiều hướng khác nhau.
Ghé vào quán cà phê khuất
ở góc của Nhà Đày Buôn Mê Thuột, nom ngoài bình dị, vào trong thật kinh ngạc
trước hàng ngàn hiện vật quý của Tây Nguyên được sưu tập về: nào chiêng, ché,
trống, các vật dụng phục vụ cuộc sống hàng ngày của đồng bào, thuyền độc mộc
v.v. Có những loại ché thuộc lò gốm ở Phú Yên đã thất truyền ba trăm năm, trên
mình in hình những chú rùa đá đắp nổi và cả rùa biển. Đồng bào còn trang trí
trên đó những loài vật quen thuộc với người Kinh như thằn lằn, nhện, cho thấy
sự giao thoa văn hóa, cũng như nói lên tinh thần gắn kết giữa các dân tộc. Mấy
chục chiếc trống chồng lên nhau, hàng trăm chiếc chiêng treo dãy dài từ nhỏ đến
lớn, mà toàn hàng độc. Đặc biệt là những chiếc thuyền độc mộc mà nay nếu có
tiền cũng khó mua nổi. Thuyền độc mộc và k’pan dễ tìm hiểu, còn trống độc mộc
nhiều người cứ băn khoăn không hình dung ra trong lòng nó như thế nào? Vợ chồng
cô chủ đã không luyến tiếc giá trị vật chất hao hụt qua hành động đầy nghĩa
hiệp là lột luôn một cái trống nhằm thỏa mãn những ai muốn nghiên cứu, tìm
hiểu, tò mò về “ruột gan” của nó. Trống đục từ một thân cây, đủ biết cây lớn
đến nhường nào. Những chiếc trống không cái nào cùng loại; to, nhỏ, dài, ngắn,
méo, tròn. Lúc bọc da rồi (thường là da bò rừng, bò tót), để chỉnh âm, họ dui
một lỗ ở mặt trống nhỏ bằng ngón tay út, lớn thì bằng cổ tay con nít, tùy thuộc
vào âm thanh đã vừa ý người thợ hay chưa, được gọi là “Tai trống”. Không thước
đo, khuôn mẫu, người thợ của rừng đã đục trống theo bản năng và sự mách bảo của
linh giác, của hồn thiêng.
Tây Nguyên có những thứ
vô tri lại biết níu chân khách lạ, ấy là đất đỏ và đá. Đá ở trên dãy núi thuộc
vườn quốc gia Chư Yang Sing từ dưới nhìn lên cứ nhấp nhánh lóe trắng hoa cương.
Đá vùi trong đất thuộc nương rẫy vườn tược thì sẫm đen, sần sùi. Người dân mỗi
lần làm vườn gặp cục nào liền gom lại, lâu ngày thành đống, thành bờ độc đáo.
Đáng chú ý hơn là đá cây lên màu mỡ gà vằn vện, đường kính từ 40 - 60cm, ngắn
cũng vài ba mét, dài có khi chục mét, viên nào cũng 6 cạnh nên dân thường gọi
lục lăng. Loại đá này từng cây phẳng phiu chồng lên nhau dưới lòng đất như vậy
như được xẻ gọt sắp lên bởi bàn tay con người, chẳng lý giải nổi? Tây Nguyên là
thế. Có những thứ đồ bỏ lại thật giá trị trong trang trí nhà cửa, quán hàng.
Như cây cà phê tách vỏ rồi nhúng a xít loãng cho mất nhựa; những đoạn cây nổi u
cục rất bắt mắt làm lan can hay xẻ đôi ốp tường thì hết ý. Một chi tiết nhỏ:
thân cà phê nếu không ngâm nước sẽ không thể tách được vỏ. Cũng như bạn muốn
nhặt một hạt gỗ quý ở rừng khộp về ươm, phải đợi mấy năm trời chưa chắc đã nẩy
mầm, bởi vỏ nó cực dày và cứng. Ai biết cách thì đem hạt đốt đi rồi mới ươm…
Sau những vụ đốt rẫy xuất hiện nhiều mầm cây là vì thế. Rừng có quy luật tồn
tại thầm kín của nó.
Cách
mươi năm về trước, Tây Nguyên đúng nghĩa vùng đất của rừng. Con đường lên hang
Đak Tour từng là nơi giấu cán bộ cách mạng cấp cao, rừng nối dài đến chân núi.
Bây giờ giữa núi và con đường, rừng biến mất, thay vào đó là ruộng nương. Hơn
thế ở những dãy núi phía ngoài sớm thành “sa mạc”, đến dãy núi phía sau mới
thấy màu xanh của loại rừng... hậu thế. Rừng khộp trước hết là một danh từ
chung chỉ những loài gỗ quý thân đứng mọc trên núi đá khô cằn, lá to hấp thụ
năng lượng mặt trời, tích dầu như cây tếch, sao, cà chít, dầu. Vào mùa khô tất
cả cây cỏ mọc dưới chúng đều chết, đỏ quạch một màu. Những loài cây này nhờ tích
dầu, vỏ dày chịu nóng, chúng sẽ tồn tại bằng cách rụng hết lá, chỉ giữ lại một
chỏm trên đọt, và dầu chứa trong thân sẽ giúp chúng vượt qua cửa tử. Mùa mưa
cây cỏ lên xanh, rừng khộp lại tỏa nhánh, quang hợp trữ dầu tiếp tục hành trình
sống mãnh liệt của mình.
Rừng
hẹp. Những loài sống qua mấy đời người như cẩm lai, căm xe, cà chít, gỗ đỏ, gỗ
mật, trắc, hương huyết, cà te... vơi dần trên những khu rừng mọc ở núi thấp. Gỗ
cà chít có thớ hai chiều, bào về phía nào cũng thuận, qua thời gian nó sẽ lòi
ra những thớ nhỏ bằng que tăm. Gỗ hương huyết cây lớn bị đốn hạ quá nhiều, lại
chậm lớn nên ngày càng hiếm. Ở cầu thang ngôi nhà của Ama Kông có dùng loại gỗ
này. Sau hàng trăm năm, nom thấy bạc phếch nhưng đưa lưỡi dao cạo qua liền lộ
màu đỏ au. Tại Nhà Đày Buôn Mê Thuột, ở các dãy nhà thời Pháp xây dựng đã sử
dụng loại gỗ quý hương huyết, cà chít làm cột trụ. Những chiếc đinh đóng vào
cột từ hồi ấy giờ gỉ sét, thấy cả những lỗ sâu, riêng gỗ vẫn trơ như trụ bê
tông chưa hề có dấu hiệu xuống cấp.
Gỗ
hiếm, những ngôi nhà dài của đồng bào cũng dần được thay thế vật liệu hiện đại
như mái lợp tôn, tường xi măng, cột kèo bê tông cốt thép. Ako DHông là một
trong những buôn còn lưu giữ khá nguyên vẹn những ngôi nhà truyền thống. Có một
ngôi nhà mới làm lừng lững ở gần con dốc lại là quán nhậu, dài khoảng 40m; trên
20 cột đứng đều là gỗ đắt tiền rất hiếm, và cũng có thể chúng được mua từ Lào.
Tốp thợ làm ngôi nhà dài này mất một năm trời ròng rã, nghe đâu riêng tiền công
đã khoảng 2 tỉ, tiền gỗ thì khỏi tính đến. Dân ăn chơi muốn đến đây dĩ nhiên
phải rủng rỉnh, phần nhiều khách sộp cưỡi xe hơi đến cho phù hợp với uy danh
của quán. Ở những ngôi nhà dài khác phục vụ khách qua đêm tại bản Jun, chủ nhân
vẫn đặt chiếc k’pan được xem như một phần không thể thiếu trong kết cấu tổng
thể. Khác biệt là k’pan không đẽo nguyên từ một thân cây mà chân được lắp
riêng, cũng dễ hiểu vì bây giờ không dễ kiếm một cây gỗ lớn như vậy. K’pan theo
tiếng Êđê nghĩa là con rết; người dân vào rừng hạ cây, đẽo hình ghế vếch lên ở
hai điểm cuối, để biết cây gỗ phải có đường kính trên 1 mét, dài có khi trên
chục mét; xong thì hàng trăm người cùng khiêng về buôn. Đêm nghỉ lại ở ngôi nhà
dài gần bờ hồ Lak, nằm trên chiếc k’pan đủ rộng trở mình, nghe tiếng lợn kêu
phía dưới sàn của ngôi nhà khác thấy thời gian thật quý giá. Cửa sổ nhỏ, ở
những ngôi nhà xưa cửa rộng hơn, và người ta ngồi trên k’pan vừa đánh chiêng
vừa nhìn ra, tiếng chiêng vang xa lên cả những chóp núi quanh năm mây phủ… Lũ
mối chẳng rõ từ đâu, gặp mưa liền bay đầy không gian, lòn cả vào nhà. Trở dậy
bước ra, vô số mối sau một lúc bay đã mất cánh, bò khắp mặt đất. Người ta nói
rằng con mối nào lần về đến tổ sẽ trở thành vua chúa. Điều này có lý, bởi chúng
thường kiệt sức trước lúc tìm ra lối về, hoặc kiến tha, bị con người gom bắt.
Nhìn những cặp mối dắt nối nhau quanh quẩn tìm ổ thật dễ thương mới thấy cuộc
sinh tồn khắc nghiệt với những loài vật nhỏ bé.
Nghỉ lại bên hồ Lăk là
một trải nghiệm thú vị. Những con voi của buôn Jun sẽ chở bạn ra giữa hồ,
nghịch ngợm lội chỗ sâu đến ngập mình, khách sẽ thấy dập dềnh và nước bắt lên
mát lạnh mình mẩy. Từ trong buôn bầy heo đen sì ùa ra ăn cỏ. Lúc chủ đuổi,
chúng vụt chạy lên bờ nhanh bằng cả loài chó cũng rong chơi bên mép nước. Một
trận mưa bất chợt ụp xuống. Gió lùa từ hồ rười rượi. Rồi im ắng, bầu trời trong
veo trở lại, lớp mây bạc hiện ra ở viền trời. Loài voi khổng lồ từ đại ngàn trở
về sống bên con người là một bước ngoặt vĩ đại. Huyền thoại săn voi rừng Ama
Kông đã vĩnh viễn trở thành hồn thiêng của rừng già. Tên thật của ông là Y
Prung Êban. Người nào lúc có con sẽ được gọi là Ama. Con của Y Prung ÊBan là
Kông, vì thế có tên là Ama Kông (bố của thằng Kông). Ngôi nhà gỗ hàng trăm tuổi
mà nhân vật của núi rừng này sinh sống đặc biệt không kém với mái lợp bằng ngói
gỗ. Ngôi nhà lưu giữ rất nhiều những vật dụng săn voi như dây thừng dài 90m bện
từ da của 7 con trâu đực rồi đem phơi trên cây ròng rã ba tháng, có sức bền hơn
cả một đời người; mu rùa dùng đựng cơm và đồ khô; tấm nệm lót lưng voi nhà được
lấy từ vỏ cây lộc vừng đập xốp phơi khô, còn tấm nệm bằng da min (trâu rừng)
chỉ dành cho thợ đã săn được trên 72 con voi, thật đáng nể; cạnh đó là cái kẹp
cổ voi rừng làm từ loài cây nhô những u nhánh khiến nó đau đớn mà khuất phục.
Dẫu được thuần dưỡng, có con vẫn quật ngã cây lớn cho thỏa nỗi nhớ rừng quay
quắt. Bản Đôn với những lão voi hiếm hoi sót lại từ đại ngàn. Bầy đàn của chúng
phần bị tiêu diệt dưới nhiều lý do, phần thiếu thức ăn đã di cư rồi mất hút.
Những con voi già tội nghiệp trộm nghĩ có thể là một dạng đầy tớ cho sự hưởng
thụ. Mỗi lúc có khách cưỡi, người bán mía cạnh đó mời chào, nó khựng lại đòi ăn
như trẻ nít; trong lúc người quản tượng sẽ dùng móc sắt móc vào u trên đầu, voi
rất sợ nên đành rảo bước. Những con voi chờ khách, nếu ai mua mía cho một con,
tức thì những con khác rung rinh hướng về phía đó thèm thuồng trông như những
chiếc túi khí chực dứt dây xích bay vèo đi. Một ấn tượng khó phai khi ngồi trên
lưng voi dạo quanh bản Đôn hay lội giữa đầm hồ, bởi sau thế hệ những con voi
này hẳn là khoảng trống mênh mông của rừng.
Từ xa xưa đồng bào dân
tộc sống dựa vào rừng và họ cũng chính là những người giữ rừng bậc nhất. Một
nhà sưu tập bảo chủ nhân của thuyền độc mộc là những người thật sự tôn trọng
rừng. Họ có một điều kiện bắt buộc là không bán thần linh của con thuyền độc
mộc, nên buộc phải gọt một lớp gỗ ngoài ở toàn thân con thuyền; cây là của Yàng
nên họ giữ lại lớp thời gian xem như giữ Yàng ở lại. Những cây gỗ quý to lớn
chủ yếu chỉ dành làm công trình cộng đồng; mỗi khi muốn hạ, họ làm lễ thỉnh xin
thần cây dời chỗ. Ngày nay thật đau đớn khi nhìn những cây gỗ quý lừng lững bị
đốn ngã ào ào chỉ vì lợi ích hẹp hòi. Loài thủy tùng ngày trước có rất nhiều,
đơn cử ở huyện Krông Năng nguyên một hồ mọc toàn thủy tùng. Theo thời gian cứ
thưa dần, cạn kiệt. Nhiều cây chết rụi hàng trăm năm chìm dưới bùn nước, nay
được phát hiện, người ta thường đem đẽo làm độc bình tuyệt đẹp, gỗ lên màu ngọc
bích lóng lánh. Tìm một cây thủy tùng thật khó. Đoạn đường ra huyện Buôn Hồ,
ngang cầu Rô Xi nhìn về phía tay trái xuôi theo dòng nước may còn đó một cây
thủy tùng, nó đứng đó cô đơn cùng tận! Rừng chảy máu liên miên và vết thương ấy
dường như không bao giờ lành. Nhiều dự án đốn rừng già rồi trồng vào đó những
loài chóng lớn - là một sự thật đến khôi hài. Lại có một dự án can thiệp nghiêm
trọng vào rừng đặc dụng, vĩ đại đến mức tách cả dòng Srê Pốk khiến một đoạn dài
mấy chục mét vơi cạn. Sông mênh mông là vành đai bảo vệ rừng hữu hiệu, nước cạn
rừng sẽ yếu dần, lâm tặc dễ dàng lội qua chặt phá. Ở bản Đôn và nơi khác ngày
trước suối xối xả tuôn, đêm nằm sâu trong bản cũng nghe rầm rì âm hưởng của núi
rừng huyền hoặc, rồi bỗng ráo cạn! Dòng chảy thay đổi đột ngột, nhiều loài cây
từ lâu bình yên tồn tại sẽ không đủ thời gian thích ứng, cũng chết. Sông núi do
tạo hóa kiến tạo có nguyên lý cân bằng hàng triệu năm; khai thác mỏ quặng, tách
dòng chảy là góp phần hành xử thô bạo với quy luật tự nhiên, những con dân của
rừng mất luôn nguồn nước, đẩy họ vào một hoàn cảnh sống khắc nghiệt muôn vàn
đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần. Những con người biết bao thế hệ sống
nương vào dáng núi, vào bóng mát của cây và mạch nước rừng thiêng lại bắt đầu
những cuộc thiên di buồn bã.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét