“CẢM HOÀI” CỦA ĐẶNG DUNG
NỖI ĐAU NGƯỜI ANH HÙNG CHIẾN BẠI
Phiên âm:
CẢM HOÀI
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa!
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
Dịch
nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già rồi, biết làm sao đây?
Trời đất rộng lớn thu vào trong một khúc ca say.
Gặp thời, anh hàng thịt, kẻ câu cá, cũng dễ làm nên công
lạ,
Lỡ vận, bậc anh hùng cũng phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay thời chuyển thế
(Nhưng) không có cách nào kéo sông Ngân xuống để rửa giáp
binh.
Thù nước chưa trả xong, đầu sớm bạc
Bao phen mài gươm báu dưới bóng trăng.
Bản
dịch thơ của Vũ Bình Lục:
Việc đời biết tính sao đây?
Đất trời gom khúc ca say đắng lòng.
Gặp thời, đồ điếu thành công,
Thất cơ, bao kẻ anh hùng trắng tay.
Những mong giúp chúa
chuyển xoay,
Kéo sông Ngân rửa kiếm
này được sao?
Hận còn đây, sớm bạc đầu,
Mài gươm vẹt ánh trăng
thâu mấy lần.
Cha con Đặng Tất, Đặng
Dung, đều là những anh hùng hào kiệt, lừng lẫy ở thời Hậu Trần. Nhưng buồn
thay, họ đều là những anh hùng lỡ vận, không gặp thời, lại không gặp được minh
chúa. Cha (Đặng Tất), chết oan vì sự nghi kỵ ngu hèn của kẻ cầm quyền (Giản
Định Đế). Con (Đặng Dung), chết uất hận trong tay giặc Minh, mặc dù
họ đã có những cơ hội làm nên sự nghiệp lớn lao, giành lại giang sơn đất nước
từ tay ngoại bang xâm lược.
Đặng Dung để lại cho đời
một bài thơ bất hủ, bài thơ “Cảm hoài”, bên cạnh những chiến công oanh
liệt và tấm gương hy sinh đẹp đẽ của chính ông. “Cảm hoài” có lẽ được
danh tướng Đặng Dung viết vào thời điểm trước khi ông bị tướng Minh Trương Phụ
bắt (1413). Sống lẩn trốn trong núi rừng, sức cùng, lực kiệt, cảm thấy không
còn cơ hội khôi phục sự nghiệp chiến đấu chống giặc Minh, ông bày tỏ nỗi “cảm
hoài” bi tráng của người anh hùng thất cơ lỡ vận…
Bài thơ chữ Hán, thể thất
ngôn bát cú luật Đường khá chuẩn mực. Hai câu mở đầu, đã thấy một câu hỏi lớn,
chứa chất đầy bi phẫn:
“Việc đời dằng dặc, mà
ta già rồi, biết làm sao đây”? Hỏi, là hỏi chính mình, hỏi trời xanh thăm
thẳm, rằng việc lớn chưa thành, còn bao bề bộn, ngổn ngang, mà ta thì già rồi,
biết làm thế nào? Quân cuồng Minh đang mạnh, quân khởi nghĩa thua trận vì lực
mỏng, thế cô. Ngày tháng qua mau, sức tàn lực kiệt, biết tính sao đây? Có lẽ,
trong lòng tác giả đang dâng trào những cảm xúc riêng chung khó tả, mà đành bất
lực trước “thế sự du du”, muốn “gom cả trời đất rộng lớn lại mà ném
cả vào một cuộc say”, để cố quên đi hiện thực cay đắng này chăng! Hỏi,
nhưng câu trả lời đã rõ. Câu mở đề đã thấy hiện lên tầm vóc tư tưởng của chủ
thể trữ tình.
Hai câu tiếp theo, nói về
việc đời xưa nay, thành bại chung quy là tại trời. Khi thời vận đến, thì những
kẻ tầm thường, cũng dễ làm nên công lạ. Lúc vận hội bỏ ta mà đi, thì dẫu là kẻ
anh hùng, cũng đành phải nuốt hận mà thôi! Việc đời xưa nay vẫn thế, mà ta cũng
biết thế, không có gì lạ. Đã đành là quy luật chung của muôn đời, nhưng chẳng
may vướng vào nỗi đau này, ai mà chẳng xót xa, huống chi những người ôm chí
lớn! Đặng Dung trước đó đã từng chỉ huy một trận tập kích mãnh liệt và bất ngờ,
khiến quân Minh tan tác tả tơi. Ông nhảy sang thuyền địch, quyết bắt sống
Trương Phụ, tiếc rằng trong đêm tối, không kịp nhận ra hắn. Trương Phụ thoát
chết, tập hợp binh mã phản công. Quân ta binh lực mỏng, lại không có viện binh,
cuối cùng thua trận, lâm vào thế bị bao vây, khốn đốn trong rừng sâu nhiều
ngày, rất khó có cơ hội phục dựng. Đặng Dung cảm nhận rằng vận nước đang vô
cùng ảm đạm, thất bại là điều khó tránh khỏi, nên chi, nỗi lòng ông nặng trĩu
buồn đau, uất hận vô cùng. Ông viết: “vận khứ anh hùng ẩm hận đa”! Nỗi
uất hận dồn nén, phải cắn răng mà “nuốt” vào trong bụng. Chữ “ẩm hận”
là uống hận, nuốt hận, là chữ tập trung nhất tinh thần cảm khái của bài thơ, đủ
thấy độ căng của hận thù, độ sâu của niềm bi phẫn. Đó cũng chính là ý khai
triển chủ đề, khai triển ý “vô cùng thiên địa nhập hàm ca” ở câu mở đề.
Có lẽ sau này, Nguyễn Trãi đã lấy cảm hứng ở đây mà nâng cấp lên câu “Anh
hùng di hận kỷ thiên niên” (Anh hùng ôm hận mấy ngàn năm) chăng?
Hai câu 5 và 6, tiếp nối
mạch trữ tình, mạch tâm trạng phẫn uất buồn đau:
“Trí chủ hữu hoài phù địa
trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”.
Lòng những chăm chắm muốn
đem tài giúp chúa, xoay thời chuyển thế, mong lật lại thế cờ, giành lại non
sông, nhưng tiếc thay, thời vận không còn, không có cách nào, không có con
đường nào (vô lộ) kéo được sông Ngân xuống mà rửa giáp binh, kết thúc
cuộc chiến giành lại bờ cõi giang sơn…
Hai câu kết, gói lại tứ
thơ:
“Thù nước chưa trả xong,
đầu sớm bạc,
Bao phen mài gươm báu
dưới bóng trăng”…
Một cái kết thật hay, vừa
hiện thực, lại vừa thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Khí thơ dồn nén, hừng hực nấu
nung nỗi niềm uất hận bi tráng. Có thể nói, đây chính là một trong những câu
thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam, kể từ thời dựng nước tới nay!
“Cảm hoài” của Đặng Dung là một
nỗi buồn lớn. Nó là tiếng kêu bi phẫn của người anh hùng chiến bại. Ý tưởng
chung, có tính khái quát, biểu hiện rõ nét ở sự đối lập. Đối lập giữa cái hữu
hạn nhỏ bé của con người, với trời đất rộng lớn. Đối lập giữa khát vọng vô
cùng, với hiện thực nghiệt ngã đớn đau. Đối lập giữa thời gian ngắn ngủi một
đời người, với việc đời ngổn ngang dằng dặc… Và chính nó tạo nên những mâu
thuẫn, những giằng xé tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Đặc sắc của bài thơ “Cảm
hoài” không chỉ biểu hiện ở nghệ thuật thơ điêu luyện, ở những câu thơ gợi
liên tưởng sâu rộng, khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình chủ thể. Hơn thế, nó
còn là nỗi cảm hoài tê tái sáng trong và cao thượng của người anh hùng thời
đại, mang trái tim kẻ sỹ với tầm vóc kỳ vĩ. Bi phẫn, mà không hoàn toàn buông
xuôi, tuyệt vọng, cho dù, “vận hội gặp phong ba, trí mưu sao được nữa”!
(Nguyễn Trãi). “Cảm hoài” hội được cái đặc sắc về nghệ thuật thơ ca và
tầm cao tư tưởng. Nó tiếp nối tinh thần cảm khái ở “Thuật hoài” của Phạm
Ngũ Lão, mặc dù thời thế có khác nhau. Nó tiêu biểu cho những tiếng kêu thương
đứt ruột của những anh hùng thất thế trong thời buổi vận nước gặp nguy nan, ví
như Lê Cảnh Tuân cùng thời, như Nguyễn Quang Bích (Tên thực là Ngô Quang
Bích), Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… sau này.
Tiếng lòng đau đớn xót xa
của Đặng Dung được gửi gắm qua một bài thơ, đã đi vào lịch sử văn chương, như
một kiệt tác, có thể truyền mãi đến muôn đời. Nguyễn Cảnh Dị, người bạn chiến
đấu của Đặng Dung, chiến công và sự hy sinh anh dũng lẫm liệt, không thua kém
Đặng Dung. Thế nhưng, Nguyễn Cảnh Dị không để lại thơ văn cho đời, nên tiếng tăm
không nổi bật bằng Đặng Dung. Thế mới hay, văn chương đã góp phần làm rạng rỡ
thêm gương mặt anh hùng, chẳng phải vậy sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét