Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

SỐ 267 - tác giả PHẠM MINH TRỊ




MÂU THUẪN, ĐỐI LẬP, KỊCH TÍNH TRONG
NỖI OAN HẠI CHỒNG
Trích vở chèo “Quan âm Thị Kính”
(Ngữ văn 7,tập 2, bài 29)


Đây là đoạn trích trong vở chèo “Quan âm Thị Kính”, một vở chèo nổi tiếng, ngấm sâu vào lòng người, đặc biệt thế hệ trước nhưng hơi xa lạ với các em học sinh (HS) hiện nay, nhất là đối tượng HS lớp 7 mới ở độ tuổi 13. Hơn nữa đây là lần đầu tiên các em tiếp xúc với thể loại chèo. Do vậy, khi hướng dẫn các em nhận cảm đâu phải là chuyện dễ dàng.
Ta biết rằng, không khí chèo, hơi thở chèo gắn liền với cây đa, bến nước, sân đình của làng, của lớp người áo the, khăn xếp, yếm thắm nón quai thao. Vì thế với các em HS lớp 7, nghiễm nhiên có một khoảng cách lớn về hoàn cảnh xã hội và kéo theo khoảng cách trong nhận thức, tiếp cận. Cái khoảng cách đời sống, xã hội ấy đòi hỏi người thầy phải thu ngắn lại trong giờ học vỏn vẹn có 45 phút. Đó là một thách thức lớn đối với người giảng dạy chèo.
Để làm được điều đó, giáo viên (GV) cần phải đi sâu khai thác kịch tính và các mâu thuẫn trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng”.
Đương nhiên trước khi hướng dẫn cho các em tiếp cận và nhận cảm rõ kịch tính và các mâu thuẫn trong đoạn trích, GV phải giải thích ngắn gọn khái niệm chèo và những đặc trưng cơ bản của chèo như: Chèo là một loại kịch múa hát dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu để khuyến cáo đạo đức thường được diễn ở sân đình; thuộc sân khấu tổng hợp các yếu tố nghệ thuật ước lệ và cách điệu cao kết hơp chặt chẽ cái bi và cái hài; các nhân vật truyền thống: thi sinh thì nho nhã điềm đạm, nữ chính thì đức hạnh, nết na; mụ ác thì tàn nhẫn, độc địa… Và đặc biệt GV nên tái hiện khung cảnh đặc thù mà chèo thể hiện để đưa các em vào không khí chèo và hơi thở chèo. Điều này đòi hỏi GV phải sáng tạo tuỳ theo tình hình cụ thể của đối tượng HS ở từng vùng miền cụ thể mà các em sinh sống (có lẽ ở vùng đồng bằng Bắc bộ dễ dàng hơn ở các vùng khác).
Ta đã biết, trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” về dung lượng so với lớp vu quy (trong phần I của vở chèo) là rất ngắn nhưng mâu thuẫn kịch tính của toàn bộ phần I lại tập trung đọng lại ở đoạn này. Vì vậy khi hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn trích cần làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp thông qua các xung đột như: gia đình, hôn nhân… mà nạn nhân là nhân vật Thị Kính – người phụ nữ lao động nết na, dịu hiền, yêu thương chồng, kính trọng mẹ cha. Đặc biệt, sự đau đớn oan khổ mà họ không thể giãi bày, cái uất nghẹn ấy dâng trào cuộn lại thành một khối oan khiên ngày càng đậm đặc.
Trong trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” có tất cả năm nhân vật tham gia, đó là: Sùng ông, Sùng bà, Thiện Sĩ và Thị Kính, Mãng ông, song hai cực của trục nhân vật này là Thị Kính (nữ chính) và Sùng bà (mụ ác). Hai cực luôn đối lập nhau từ hình dáng, lời nói, đến suy nghĩ, hành động. Đặc biệt đối lập nhau ngay từ nguồn gốc xuất thân. Đó là sự đối lập, đối kháng, mâu thuẫn gay gắt nhất, một mất một còn. Một bên đại diện cho lớp địa chủ phong kiến, bóc lột hắc ám từ trong suy nghĩ, đến ánh mắt lời nói, hành động. Một bên đại diện cho tầng lớp phụ nữ lao động nghèo chân chất, dịu hiền, nhẫn nhịu cam chịu.
Thực ra chi tiết Thị Kính cầm dao khâu để cắt sợi râu mọc ngược dưới cằm của Thiện Sĩ chỉ là cái cớ để kịch tính dâng trào và mâu thuẫn ùa ra vây lấy Thị Kính. Giả sử rằng Thị Kính không cầm dao khâu để cắt râu mọc ngược của Thiện Sĩ thì theo quy luật sẽ có một chi tiết tương tự xảy ra. Bởi Thị Kính đã bị ném vào trong lòng của một hoàn cảnh mà mình không thể nào sống hoà nhập được. Vì đó là bản chất đối lập loại trừ nhau của hai giai cấp đối kháng: địa chủ và nông dân. Mâu thuẫn giữa kẻ bóc lột hắc ám và người bị bóc lột thành thực, hai bản chất hoàn toàn khác biệt không thể nào dung hoà được.
Từ bản chất, nguồn gốc ấy mà hành động, ngôn ngữ của Sùng bà và Thị Kính đối lập hoàn toàn. Nói không ngoa rằng: đối lập từ hơi thở, ánh mắt trở đi.
Hành động của Sùng bà vô cùng thô bạo, hách dịch và tàn nhẫn: khi thì dúi đầu Thị Kính xuống, lúc thì bắt Thị Kính  ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, giãi bày, dúi tay đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống… Còn ngôn ngữ của Sùng bà? Rất phù hợp với hành động thô bạo, tàn nhẫn. Đó là những lời mắng nhiếc, sỉ vả, đay nghiến. Mỗi lần mụ cất lên một lời là Thị Kính lại thêm một tội. Tội lỗi của Thị Kính cứ chất chồng theo lời đay nghiến hằn học, nanh ác hiểm độc của mụ. Mụ tự cho mụ cái quyền nghiễm nhiên buộc tội người khác không cần phải trái, không cần hỏi rõ sự tình, không cần nghe phân bua giãi bày. Ta hãy nghe những lời mụ mắng nhiếc Thị Kính: Giống nhà bà đây, giống phượng giống công. Nhà bà đây cao tôn lệnh tộc. Trứng rồng lại nở ra rồng. Tuồng bay mèo mả gà đồng. Mày là con nhà cua ốc. Liu điu lại nở ra dòng liu điu… Rõ ràng mụ cho mụ là giống thượng đẳng cao hơn hẳn giống mà Thị Kính xuất thân. Có lẽ mụ đuổi, vu oan cho Thị Kính vì lý do mâu thuẫn về nguồn gốc giai cấp hơn là lý do Thị Kính giết chồng? Lời nói của mụ hình như chỉ chú tâm vào điều đó. Vậy nên mâu thuẫn giai cấp là mâu thuẫn cơ bản, điều khiển suy nghĩ, tư tưởng, lời nói, hành động của Sùng bà. Mỗi lời nói ra của mụ sặc mùi phân biệt đối xử. Lúc này không còn mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu nữa mà chỉ còn là mối quan hệ giai cấp đối kháng. Vì thế mới gay gắt, quyết liệt, mất còn. Mụ kiên quyết không dung nạp Thị Kính mặc dù Thị Kính có đầy đủ những tiêu chuẩn đức hạnh do lễ giáo phong kiến đặt ra (công, dung, ngôn, hạnh).
Một chi tiết nữa cũng góp phần minh chứng cho mâu thuẫn giai cấp bùng nổ. Đó là Sùng ông mới hôm qua còn thân thiết với thông gia – Mãng ông, vậy mà hôm nay quay ngoắt đã lừa Mãng ông – cha của Thị Kính sang ăn cữ cháu, hơn nữa còn hành động thô bạo, lỗ mãng, cạn kiệt tình người: Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào nhà. Hình như chúng có thói quen vui thú làm điều ác, bắt người khác phải nhục nhã ê chề, đau đớn đến tận cùng chúng mới hả hê?
Hậu quả của mâu thuẫn giai cấp đã đè nặng bóp nghẹt trái tim yếu đuối của Thị Kính. Thị Kính là nạn nhân tất yếu. Dù cho Thị Kính có dùng những lời lẽ khẩn thiết, ai oán đến đâu thì với Sùng bà tất thảy đều vô ích. Vì đó là tính tất yếu của mâu thuẫn giai cấp. Chỉ có người cùng cảnh ngộ mới cảm thông cho nhau nên khi lần cuối cùng Thị Kính kêu oan với cha - Mãng ông - mới nhận được sự cảm thông dù đó là nỗi cảm thông đầy đau khổ, uất nghẹn và bất lực.
Mối xung đột càng ngày càng dâng cao. Chỗ tập trung cao độ nhất đó là khi Sùng ông lừa Mãng ông – là thông gia, là cha của Thị Kính - sang nhà ăn cữ cháu, rồi thích thú dúi ngã Mãng ông, bỏ vào nhà. Thị Kính vội chạy lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau than khóc. Lúc này, Thị Kính bị đẩy vào cực điểm của nỗi đau uất nghẹn. Thị Kính vừa chịu nỗi đau tan vỡ tình vợ chồng, vừa gánh nỗi đau của cái oan tày trời mà cả gia đình Sùng bà xúm  vào trút lên thân phận nhỏ nhoi, yếu đuối. Giờ lại thêm nỗi đau trước cảnh cha già vô cùng kính yêu của mình bị hành hạ, khinh bỉ, mà sự hành hạ, khinh bỉ lại do chính cha chồng dù bây giờ không còn là cha chồng nữa miệt thị. Thị Kính và Mãng ông lúc này trơ trọi, lẻ loi, cô độc trên sân khấu, hai cha con ôm nhau than khóc. Hình ảnh này được kéo dài trên sân khấu, tiêu bỉêu cho những người lao động nghèo khổ, chân chất, yêu thương nhau mà hoàn toàn bất lực trước nỗi đau, nỗi oan. Chính chi tiết này, hình ảnh này mang lại tính mỹ cảm bởi nó thấm đẫm tính nhân văn, mang ý nghĩa sâu sắc ở nhiều phương diện, góp phần rất lớn trong việc tố cáo chế độ lúc bấy giờ, đặc biệt mối mâu thuẫn giai cấp đang quyết liệt đòi giải quyết để mang lại quyền bình đẳng, tự do, quyền sống của con người.
Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” gieo vào lòng người đọc nỗi cảm thông sâu sắc cho thân phận yếu đuối, bất lực nhẫn nhục, đau khổ, đơn độc của người phụ nữ ngày xưa. Nhân vật Thị Kính mãi mãi đọng lại trong tâm khảm của người đọc dù nhân vật này chưa có cái khoẻ khoắn, mạnh bạo, thiếu cái bản lĩnh dũng cảm của nhân vật Thị Phương trong vở chèo Trương Viên. Và đặc biệt, chưa có cái nghị lực dám đứng lên hành động chống lại sự áp bức bất công, oan trái để vượt lên hoàn cảnh. Lúc mà Thị Kính bị dìm trong nỗi oan trái, người đọc thèm nghe tiếng xưng hô trịch thượng bà, mày của chị Dậu sau này trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét