Kurahashi Yumiko sinh ngày
10.10.1935 tại Kochi, quận Shikuoka. Tốt nghiệp đại học Maiji với bằng cử nhân
văn chương.
Tác phẩm của bà mang tính thực nghiệm
phi lý tính, nghi ngờ những tiêu chuẩn xã hội thịnh hành về quan hệ tính dục, bạo
lực, và trật tự xã hội. Những tiểu thuyết thực nghiệm của bà có nhiều yếu tố của
phong cách hậu hiện đại.
Truyện ngắn “Party” (1960) của bà được
giải thưởng Meiji University Chancellor’s Award năm 1960 và giải thưởng the
Women’s Literary Award năm 1961. Tiếp theo đó là tiểu thuyết đầu tay, “Blue
Journey – Hành trình xanh” (1961), truyện về một người đàn bà tìm một người đàn
ông để đính hôn. Năm 1969, Kurahashi xuất bản “The adventures of Sumiyakist Q –
Những cuộc phiêu lưu của ông Q theo chủ nghĩa Sumiyakism” thuật lại những nỗ lực
của một người đàn ông bí mật biến đổi nhiều người theo một hệ tư tưởng tưởng tượng
gọi là Sumiyakism.
Năm 1969, Kurahashi bắt đầu loạt tiểu
thuyết trường thiên nhiều tập về cuộc đời của một người đàn bà tên là Keiko
nhan đề “A floating Bridge of Dreams - Chiếc cầu bềnh bồng của những giấc mơ”.
Trong bộ tiểu thuyết nhiều tập này, Kurahashi tạo ra một thế giới tưởng tượng
song hành tiếp tục thông qua nhiều thế hệ của gia đình Keiko.
Kurahashi vừa nổi tiếng về những
truyện phức tạp được viết với văn phong sáng sủa vừa về những đề tài gây tranh
cãi của bà, như loạn luân và trao vợ đổi chồng trong những truyện của bà. Ngoài
giải thưởng cho truyện ngắn “Party”, bà còn được giải thưởng Tamura Toshiko
Award năm 1963 và Izumi Kyoka Memorial Prize năm 1987 với tác phẩm “Journey to
Amanon – Hành trình đến Amanon”.
Những tác phẩm khác của Kurahashi
Yumiko: “The Monastery – Tu viện”, Carolyn Haynes dịch sang tiếng Anh (1985),
“The Woman with the Flying Head and other stories of Kurahashi Yumiko – Người đàn
bà có cái đầu bay và những truyện khác của Kurahashi” do Atsuko Sakaki dịch
sang tiếng Anh xuất bản năm 1998.
Kurahashi Yumiko qua đời ngày
10.6.2005.
*
Truyện ngắn dưới đây được Ian
MacDonald dịch sang Anh ngữ, in trên tạp chí Words Without Borders số tháng 7.2012.
ĐẦU CỦA APOLLO
Đó là một buổi chiều dễ chịu cuối mùa
thu. Tôi đang theo lối tắt xuyên qua khu rừng có nhiều cây bạch quả và cây du
cao thuộc khuôn viên trường đại học của tôi. Đang đi thì tôi gặp một chỗ có ánh
nắng chiếu qua những cành cây bạch quả, loài cây này đẹp tuyệt vào thời điểm này
trong năm. Những cánh lá vàng của chúng loang loáng như những cái chũm chọe, như
rót vào không khí tiếng nhạc vàng của chúng. Vô số lá khiêu vũ trên đất, cùng với
hai bản Sonate của Scriabin trong đầu tôi mà tôi vừa tập với thầy dạy dương cầm.
Chợt mắt tôi bắt gặp một tia sáng nhạt
ở gần chân một thân cây. Nhìn vào bụi cây thấp, tôi thấy một ánh lửa xanh xanh được
bao quanh bởi một quầng vàng. Trước khi tôi biết mình đang làm gì tôi đã đẩy
qua một bên bụi cây gai để tìm nguồn của nó. Kìa trước mắt tôi là đầu một chàng
trai – hay đúng hơn tôi nên nói là một thiếu niên. Chắc là tôi khác với những
người phụ nữ khác, vì tôi không xỉu ngay tại chỗ mà cũng không hét lên và bỏ chạy.
Tôi đứng sững, không thể rời mắt khỏi cái đầu lạ lùng đang phát sáng. Có lẽ cách
tốt nhất để diễn tả là tôi như bị bùa mê. Cái đầu có một vẻ đẹp cực kỳ tôi chưa
từng thấy ngoại trừ nơi những pho tượng thần linh. Trong một thoáng tôi nghĩ chắc
đó là đầu của một con búp bê làm bằng vật liệu đặc biệt, nhưng tôi nhanh chóng
nhận ra đó đúng là một đầu người. Vậy thì lẽ ra cái đầu này không còn sức sống,
nhưng lại không phải như thế.
Đôi mắt của nó mở. Tôi thấy đôi đồng
tử chuyển động và mi mắt nháy. Nhưng đôi mắt của nó không chăm chú nhìn tôi hay
nhìn vật gì đặc biệt. Chúng có vẻ trống rỗng. Khi cái đầu hạ tầm nhìn của nó, đôi
mi mắt dài, dầy như con gái đổ bóng u buồn lên trên khuôn mặt. Tôi mạnh dạn vươn
tay và đẩy lùi một nhúm tóc trên trán. Mặc dù tôi sờ thấy tóc lạnh, nhưng thịt
bên dưới tóc thì ấm.
Cuối cùng tôi nhận thức lại được và
hoảng hồn, giống như bất kỳ ai khác. Tôi chạy về nhà, để mặc cái đầu ở đó. Tôi
tự nhủ rằng cái mà tôi đã thấy trong quầng hào quang vàng đó là một ảo ảnh, hay
có lẽ đó là kết cục của một tội ác còn che giấu. Có người đã giết chết cậu trai
đó, cắt đầu cậu ta, ném vào rừng cây, tôi nghĩ vậy. Đơn giản thế thôi. Hẳn là
chuyện này sẽ có trên báo chí hay trên truyền hình vào ngày mai. Tôi sẽ chỉ giả
vờ là tôi không biết gì hết.
Sau khi làm cho đầu óc ổn định với lý
lẽ ngu xuẩn này, tôi đi ngủ. Nhưng giấc ngủ của tôi tràn đầy ác mộng. Tôi hầu
như không chợp mắt đêm đó. Tôi không sao giũ được cảm giác cái đầu ấy còn sống.
Trong những giấc mơ tôi thấy nó gắn đầu lại vào cái cơ thể trần truồng – cái cơ
thể nửa là thiếu niên nửa là thanh niên. Nó gợi nhớ đến pho tượng Apollo được tạc
bằng cẩm thạch núi Pentelikos gần Athens hay đá cẩm thạch Parian trên đảo Paros
trong biển Aegean của Hy lạp thời cổ đại, sự khác biệt duy nhất là da của cậu
ta thì không lì lì như đá mà trắng và mềm dẻo như một cây con. Tôi mơ thấy tôi
cũng trần truồng, cơ thể tôi quấn quanh thân cứng như cây của pho tượng cẩm thạch.
Bất chấp sự thiếu nhân dạng hay tính cách của pho tượng – hay có lẽ vì vậy –
pho tượng như là người tình thật sự của tôi. Tới đây thì giấc mơ của tôi trở nên
mơ hồ. Điều tiếp theo tôi biết là tôi vật Apollo xuống và trèo lên chàng, đè chàng
sát đất. Rồi với một nhát gọn tôi cắt rời đầu chàng, giống như Kumagai Naozane
cắt họng chàng đẹp trai Taira Atsumori trên bãi biển ở Ichi-no-tani. Nó rời ra
dễ dàng, giống như một cây xương rồng.
Ác tâm nào đã xui tôi làm một hành động
như thế? Trong khi nằm thức ngẫm ngợi điều này, tôi đã có cảm giác kỳ cục rằng
trong nhận thức trừu tượng nào đó tôi đã thực sự giết người tình của tôi. Khi
thần kinh căng thẳng quá mức chịu đựng, tôi đi tới một kết cục: tôi quyết định
tìm lại cái đầu.
Bình minh vừa ló dạng khi tôi vào rừng
mang theo một cái túi xách. Đầu của cậu trai nằm y nguyên chỗ tôi đã rời đi, không
thay đổi gì ngoại trừ một số lá cây bạch quả vướng trong tóc cậu.
“Xin chào. Cậu ngủ ngon chứ?”.
Dĩ nhiên cái đầu không trả lời. Phủi
lá đi, tôi nhanh chóng cất cái đầu vào túi. Trong khi làm thế, tôi thấy nhiều mạch
máu nhú ra như những mầm cây từ chỗ cổ cậu ta, nhưng tôi không dừng lại để xem
xét kỹ hơn. Cái chính là đem cái đầu về nhà mà không bị ai thấy.
Thành công của cuộc phiêu lưu buổi sáng
của tôi làm tôi lên tinh thần. Cái đầu không còn làm tôi sợ. Có lẽ tôi sẽ đem nó
lên giường với tôi tối nay, tôi nhủ thầm. Nhưng tôi biết đó chỉ là tiếng nói của
hóc môn adrenaline – tôi không có ý định làm một chuyện gì như thế. Nói thật là,
tôi luôn luôn ác cảm với động vật và thậm chí chưa hề nuôi một con chó hay mèo
cưng nào.
Bây giờ tôi để cái đầu trong một chậu
sứ nông, loại dùng để cắm hoa. Tôi đổ nước vào chậu, nghĩ rằng nếu không thì nó
sẽ khô. Nhưng rồi tôi thấy rằng hình như nó hơi lắc lư, và tự nhiên tôi nghĩ rằng
tôi có thể đặt nó trên một trong những đĩa đinh kim loại dùng để cắm cọng hoa.
Như mong đợi, đó chỉ là một trò lừa. Nó đã không tác động tôi dữ dội lắm, và mặt
nó không có vẻ đau. Nó chỉ tiếp tục nhìn vào không gian qua đôi mắt mở hé, như
trong một cơn hôn mê thực vật. Vâng, đó là những từ hoàn hảo để miêu tả thái độ
của cái đầu. Nó mở ra trong tôi ý nghĩ có thể dùng cái đầu như một cây trồng
trong nhà. Sau này trồng nó thì có thể là tốt, tôi trầm tư, nhưng bây giờ tôi dùng
thuật trồng cây trong nước, như người ta trồng lan dạ hương và hoa nghệ tây.
“Vậy ra đây là cái đầu mà em đang nói
đến đó à?”
Toru, vị hôn phu của tôi, gần như thất
vọng nói. Thiệt tình là tôi đã không muốn nói với anh về cái đầu. Nhưng vì anh
ghé chỗ tôi mấy lần một tuần và thỉnh thoảng ở lại qua đêm, tôi biết là tôi không
thể giữ bí mật với anh mãi mãi.
Khi tôi kể với Toru, ra vẻ hết sức bình
thường, về những gì đã xảy ra từ khi tôi khám phá ra cái đầu, anh tỏ ra hết sức
mong muốn nhìn thấy nó. Rõ ràng, ý nghĩ trông thấy cái đầu sống của một chàng đẹp
trai đã gảy lên sợi dây đàn tò mò kinh khủng nơi anh. Nhưng sự thật là không có
gì lạ về cái đầu. Nó đã không truyền cảm xúc xuất thần, như cái đầu của thánh
Giăng Báp-tít đối với Salomé, dù tôi thú nhận là giống như nàng, tôi đã thử hôn
lên môi nó nhiều lần. Tôi hài lòng phát hiện một sự đáp trả - không phải là nó đưa
lưỡi vào miệng tôi, mà là môi nó cọ nhẹ nhàng vào môi tôi. Tôi có cảm giác áp một
nụ hôn lên một cậu trai trinh bạch.
“Vậy là cái vật này sống, ở đây như
thế này hả?” Toru hỏi.
“Phải, nó thực sự hút nước. Có thấy
những động mạch nơi cổ nhú ra như những chiếc rễ không? Với tốc độ này em sẽ không
ngạc nhiên nếu nó sớm bắt đầu ra hoa”.
“Anh không biết nó có ý thức con người
không” Toru nói. “Anh muốn nói là nó đang nhìn chúng ta, nhưng em có cho là nó đang
nghĩ chuyện gì không?”
Không may là, điều đúng nhất có thể
nói về cái đầu là hình như nó ở trong trạng thái thực vật. Không giống như
Apollo thật, không có ánh lấp lánh trong mắt nó. Chúng mở nhưng không thấy gì.
Sau khi tôi giải thích như vậy cho Toru thì chúng tôi lao vào vòng ôm đam mê, làm
tình chẳng mắc cỡ gì ngay trước mặt cái đầu. Cậu ta vẫn giữ vẻ đẹp và sự im lặng
như một bông hoa, thanh lịch đậu trong cái chậu của mình giống như bông hoa li
li ngủ trong nắng trưa.
“Em nói đúng” Toru nói giọng lạc đi
“Nó vĩnh viễn không phải là người”.
Dĩ nhiên là anh nói đúng. Nhưng nếu
bạn hỏi tôi, thì tôi trả lời cái đầu đẹp hơn bất kỳ người đàn ông nào. Nó có một
vẻ đẹp tinh tế, sang trọng – thậm chí thơm ngát. Nếu so sánh thì vị hôn phu
Toru của tôi là một con thú bốc mùi thối. Dù sao đi nữa thì năm tới, khi chúng
tôi kết hôn, Toru và tôi sẽ cùng nhau đi châu Âu. Thiên tư đích thực của anh là
âm nhạc. Hôm đó chúng tôi đã ngồi vào hai chiếc đàn dương cầm và chơi bài La
valse của Ravel và Variations của Lutoslawski.
Qua những tháng mùa đông cái đầu trải
qua một sự biến đổi ngoạn mục. Nó trông ngày càng ít giống với một cái đầu trẻ đẹp,
mà hóa đỏ và cứng như một quả lựu. Khi mùa xuân đến nó đột ngột sưng phồng lên
bằng cỡ quả dưa hấu và có màu xanh lá. Những sợi tóc bạc nhỏ, hay là những gai
mềm, nhú mầm trên khắp mặt, cho nó dáng vẻ của một cây xương rồng độc. Rồi những
bông hoa tươi thắm, có chút hồng của lan dạ hương, nở ra ở chỗ trước đây là tóc.
Thêm nhiều hoa nữa – loa kèn đỏ và phong lan đỏ tía – tất cả nở trái mùa. Vẫn còn
dạng người trước đó, cái đầu giống xương rồng khổng lồ chuyển thành một mớ hoa,
làm tôi nhớ đến một bức tranh của Arcimboldo.
Ngay khi hoa tàn cái đầu bắt đầu có
quả đủ hình dạng, màu sắc, và kích cỡ, làm cho nó có dáng vẻ lổn nhổn quái dị.
Tôi ăn thử nhiều trái gợi thèm. Mỗi trái có hương vị độc đáo, lạ lùng, nhưng không
quả nào làm tôi thèm ăn thêm nữa. Sau khi tôi hái hết các quả, cái đầu giống như
một bề mặt lởm chởm của mặt trăng. Cuối cùng những nốt đậu mùa này biến mất và
cái đầu trở nên tròn láng, hình dạng chẳng thể nói là giống với quả dưa hấu.
Khi tôi cắt nó ra bằng con dao nấu ăn thì sự tương đồng với quả dưa hấu còn tệ
hơn – thịt thì trắng và không có hạt. Tôi không thể nào tránh khỏi việc xúc động
bởi sự đơn giản nghèo nàn của nó. Cả khối mô não, dây thần kinh và mạch máu đã
từng đầy trong cái đầu trẻ trung đẹp đẽ đã trở thành gì?
Dù sao đi nữa, tôi đã thành công lớn
trong việc trồng những quả tôi đã hái, mà cũng giống như cái đầu, tôi để chúng
trong nước. Khi mùa hè đến, tôi để chúng ở nơi chúng được nhiều ánh nắng, và chúng
đã sum suê từ đó. Bây giờ chúng hóa thành những cái đầu, mỗi cái với một khuôn
mặt người đầy bản sắc. Vào mùa thu tôi chờ có hàng tá đầu mọc lên trong gian phòng
nắng của tôi. Nhân tiện, nếu bạn đang thắc mắc, thì Toru đã hủy bỏ hôn ước của
chúng tôi và đi châu Âu một mình. Anh nói anh không thể sống với một người đàn
bà bị ám ảnh bởi những cái đầu đang mọc.
VÕ HOÀNG MINH dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét