BÓNG ĐẠI THỤ GIỮA HỒN SÔNG NÚI
Truyện lịch sử
Làng Đường
Long cũng giống như bao làng quê khác của dải đất miền Trung luôn ẩn mình sau lũy
tre xanh trầm mặc với cốt cách của người quân tử. Lúc đất nước yên ổn thì dân làng
một nắng hai sương, gắn chặt với ruộng đồng sông nước; lúc tổ quốc lâm nguy thì trai tráng sẵn sàng lên đường
đánh giặc giữ nước. Và thời nào cũng vậy, người có học cốt đem sở học của mình
ra gánh vác giang san, mong làm rạng danh tiên tổ.
Đã mấy hôm rồi,
cả huyện Phong Điền, nhất là Tổng Chánh Lộc và làng Đường Long không khí rộn ràng
hẳn lên vì ai nấy đều háo hức chờ đón rước lễ ông Nghè “vinh qui bái tổ”, một
vinh dự lớn, một niềm vui không dễ gì huyện nào, làng nào cũng có được.
Con đường cát
mịn chạy dài từ thôn Đại Phú, qua Trung Thạnh, đến Chánh An, rồi Mỹ Phú được Hương
trưởng sức dân quét dọn sạch sẽ. Trước nhiều cổng ngõ được bà con treo đèn kết
hoa và ở các ngã ba, ngã tư dẫn vào các xóm cũng được cắm cờ đuôi nheo rực rỡ sắc
màu.
Dân cả vùng
này ai mà không biết sự thông minh xuất chúng lại chịu khó học hành, dùi mài
kinh sử của cậu học trò Nguyễn Duy, con của cụ lão nông kiêm phó mộc ở thôn
Trung Thạnh. Trong hào quang sự đỗ đạt của sinh đồ Nguyễn Duy người ta lại thêu
dệt thêm biết bao điều như là huyền thoại.
Dưới mái hiên
nhà thờ họ Nguyễn Văn, hôm nay các cụ đã có mặt rất sớm để cho con cháu dọn dẹp
lại sân bãi một lần nữa trước khi dựng rạp, sửa lại mấy bộ đồ đồng trên các tủ
thờ cho ngay ngắn, đơm thêm bông, chuối những nơi còn thiếu vì đám rước sau khi
về làm lễ ở đình làng sẽ đến bái vọng tổ tiên và tổ chức lễ khao vọng ở đây.
Giữa bộ trường
kỷ, ấm trà mới chế, mùi thơm của loại trà Truồi bốc lên ngào ngạt, tưởng như chưa
uống đã cảm thấy sảng khoái. Các cụ vừa nâng chén, vừa đàm đạo việc làng, việc
nước, đặc biệt là việc trong dòng họ vừa có người đỗ đại khoa, đám rước sắp về
làng, bà con nội ngoại và mấy người chức việc đang chuẩn bị lễ khao vọng. Thật
không biết bao nhiêu là chuyện, có lẽ nói từ ngày này qua ngày khác cũng không
hết.
Cụ Trưởng Cả
vừa hớp xong ngụm trà, với khuôn mặt rạng rỡ, cụ nói như đinh đóng cột.
- Tôi biết
khoa Nhâm Dần này họ ta thế nào cũng có người đỗ đại khoa. Lập xuân vừa rồi tôi
nhìn cây vạn tuế giữa sân của nhà thờ họ mình thì tôi biết điều đó sẽ tới vì chưa
năm nào mà lá của nó lại sum suê và xanh tươi như năm này. Rồi đây, con cháu của
mình cũng còn nhiều đứa phát quan, phát tướng nữa.
Nghe cụ Trưởng
Cả lý giải như rứa, ông Ấm Tí cũng nói chen vào:
- Tôi chẳng
có ý sâu sắc như bác nhưng khi xuân tới tôi thấy mấy cây đại bên hiên hoa nở
nhiều và màu thắm hơn. Tôi đoán họ ta thế nào cũng có chuyện vui, cũng được rỡ
ràng, có lẽ ai đó được thăng quan tiến chức, không ngờ lại có môn sinh đỗ đạt
như rứa.
Ông Viên Tề
ngồi phía góc nhà, từ nãy đến giờ cứ loay hoay sửa lại chiếc khăn xếp vải nhiễu
trên đầu, kéo qua kéo lại vạt áo của chiếc áo rộng xanh thêu chữ thọ mới may như
muốn khoe với mọi người là từ nay mình cũng đã có áo quần tươm tất mỗi lúc ra đình
vào họ không như mấy năm trước áo quần phải khâu vá nhiều chỗ. Bỗng ông ngước lên
rồi nói thao thao:
- Cậu Nguyễn
Duy đúng là giỏi thật, chỉ chưa đầy năm năm mà đỗ liền mấy khoa. Năm Dậu đỗ tú
tài, đến năm Sửu đỗ cử nhân, năm Nhâm Dần này vào thi Đình lại đỗ Tam Giáp đồng
Tiến sĩ. Ai cũng nói nhà có phúc đức nhiều đời để lại.
Nghe ông Viên
nói như vậy, quan trợ giáo cũ, về vườn đã lâu, giương giương cặp kính trắng nhìn
quanh một lượt, tỏ ra mình là người rành rẽ chuyện học hành thi cử, cũng nói
xen vào.
- Tôi đồng ý
như bác nói là nhờ phúc đức nhiều đời của ông bà, tổ tiên. Người xưa đã nói “có
đức mặc sức mà ăn” cũng có ý là nhắc nhở về chuyện phúc đức đó. Nhưng ở cái làng
này, cái tổng này, ai mà chẳng biết môn sinh Nguyễn Duy là con dòng, của giống.
Cứ nhìn vào ông anh cả là Nguyễn Văn Chương thì đủ biết, tự học là chính mà văn
võ toàn tài, bước một bước là từ huyện đường Phong Điền vào đến Nội các của Triều
đình, khiến nhà vua của mấy đời còn phải trọng vọng. Anh thì như rứa, còn em thì
siêng năng cần mẫn, thời niên thiếu gặp lúc hoàn cảnh gia đình khó khăn giúp
cha làm thợ mộc, giúp mẹ ra đồng tát nước, cào cỏ, thu hoạch mùa màng. Khi lớn
lên một chút thì làm thầy đồ, làm giáo thụ, kiếm cái ăn, cái mặc để tự lo việc
sách đèn, đỡ phần trang trải của cha mẹ. Cái ý chí vượt khó đó mới thật sự là
quan trọng của đời người.
Bình trà đã được
chế đi, chế lại mấy lần mà câu chuyện vẫn chưa dứt. Ánh nắng lấp lóa sau rặng
tre đổ bóng xuống khoảng sân đất đã được quét dọn sạch bóng. Gió từ phía sông Ô
Lâu ở cuối cánh đồng thổi vào mát rượi. Chim chóc cũng như cảm nhận được niềm
vui chung của dòng họ Nguyễn, của dân làng Đường Long, đua nhau hót vang khiến
cho khu vườn nhà thờ họ vốn yên tĩnh cũng trở nên rộn ràng.
Hình ảnh ngày
“Vinh qui bái tổ” võng tía, lọng vàng, cờ quạt rực rỡ, dân của mấy làng đổ ra
xem đông như hội, đứng chật cả dặm đường; cũng như lễ khao vọng, rượu thịt no nê,
hát xướng cả ngày qua đi đã gần năm mà âm vang của nó vẫn chưa dứt, xóm trên ngõ
dưới vẫn cứ bàn ra, tán vào, nhất là các cô thôn nữ tuổi vừa mười tám, đôi mươi
đối với chàng tân tiến sĩ.
Giữa đêm trăng
sáng, sau bữa cơm tối, gia đình cụ Phó mộc ngồi quanh chiếc giường tre kê dưới
giàn đậu ván, nói chuyện mùa màng, chuyện học hành thi cử. Nhưng đó chỉ là cái
cớ. Đêm nay, hai vợ chồng cụ phó muốn nói với đứa con vừa đỗ đạt, sắp lên đường
nhận nhiệm vụ do triều đình cắt cử. Mở đầu câu chuyện, cụ phó ôn tồn nói với
con:
- Duy ạ! Việc
đỗ đạt dù là đỗ đại khoa cũng chỉ mới là bước khởi đầu của kẻ sĩ, chưa lấy gì làm
đắc thắng. Ai muốn thành công trên đường đời thi phải biết vượt khó, nhất là không
bao giờ chểnh mảng công việc dù phút giây, vì khi việc đã hỏng thì có sửa chữa
mấy đi nữa cũng chỉ khắc phục được một phần, như thân thể đã bị vết thương thì
dẫu có chữa lành cũng còn lại vết sẹo khó coi. Việc “Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”, tu thân là điều quan trọng. Nói trong phạm vi hẹp là luôn giữ được
nếp nhà. Nhà ta cả đời gắn với ruộng đất, nghề thợ mộc của cha chỉ là nghề phụ
lúc nông nhàn nhưng việc học hành của các con, cha mẹ rất coi trọng, cốt là
mong cho các con biết sống có đạo lý như sách vở của thánh hiền đã dạy. Mai này
con vào trong Nội làm việc theo chiếu chỉ bổ dụng của triều đình, con phải hết
sức coi trọng công việc mà mình đảm trách. Hoàng thượng đã tin tưởng giao phó
thì con đừng bao giờ phụ lòng Hoàng thượng, làm điều sai quấy. Anh con ra làm
việc nước từ lúc đó đến nay vẫn giữ được phép nước, nếp nhà. Hoàng thượng biết
rõ cung cách đó đã nhiều lần động viên, khen thưởng.
Nguyễn Duy
ngồi lặng yên nghe cha dặn dò, nói điều hơn, lẽ thiệt.
Bà phó nghe
chồng dặn dò con kỹ lưỡng quá cũng đâm ra lo lắng. Không biết khi con ra gánh vác
việc đời có gặp bất trắc gì không. Mặc dầu ở chốn triều đình được gần gũi với bậc
minh quân vẫn không tránh khỏi sự dèm pha, ganh ghét lẫn nhau, dẫn đến nhiều điều
tai vạ. Bà cũng dặn con thêm vài điều:
- Từ làng mình
lên kinh đô có xa nhưng không xa lắm. Mỗi ngày con nhớ ăn uống đầy đủ và giữ gìn
sức khỏe. Có dịp con nhớ về thăm nhà để mẹ khỏi trông. Con cứ cố gắng làm việc
cho chu tất. Việc đồng áng thì đã có em con đỡ đần cho cha mẹ một phần nào. Thỉnh
thoảng mẹ sẽ vào kinh thăm con.
Nguyễn Duy
nghe mẹ nói tình cảm quá, cũng rơm rớm nước mắt và hứa là luôn luôn nghe lời
cha mẹ dặn.
Đêm đã
khuya, trăng đã lên quá ngọn cau sau nhà. Xóm làng vốn yên tĩnh, đêm về lại càng
tĩnh mịch hơn. Thoảng nghe trong gió mùi rơm rạ ướt giữa tiếng ếch nhái kêu ran
ở phía đồng làng.
Trước khi đứng
dậy đi vào giường ngủ, ông còn dặn bà phó:
- Sáng mai,
bà chuẩn bị may thêm cho con một bộ áo quần để có thay đổi lúc tắm giặt. Bà cũng
đừng quên mua mấy thứ lặt vặt mà nó cần dùng lúc xa nhà. Bà phó lĩnh ý rồi cũng
lặng lẽ bước vào bên trong.
Nguyễn Duy
ngồi lại một mình, ngước mắt lên nhìn những vì sao lấp lánh ở cuối chân trời. Lòng
càng bâng khuâng không dứt.
Khi về làm việc ở Nội các, lúc đầu tiến sĩ Nguyễn Duy được bổ dụng chức “Bổ
thụ Hàn lâm viện biên tu” và chỉ sau một thời gian ngắn lại được thăng chức “Hàn
lâm viện tu soạn”, chuyên giữ việc chế cáo, từ hàn để tuyên dương văn tự, cũng
như lo chương sớ, chiếu cáo, dựng bia, phong tướng trên mặt giấy tờ.
Với chừng đó
nhiệm vụ, công việc phải giải quyết hàng ngày rất nhiều. Có việc cấp thời cần được
giải quyết ngay ông phải thức đêm để lo liệu, chẳng bao giờ tỏ ra ngại khó, ngại
khổ.
Ông nghĩ đã
yên phận nên cứ miệt mài với công việc, không ngờ sự miệt mài đó đã mang lại những
kết quả ngoài dự tưởng. Ông được triều đình đề bạt làm Tri phủ Tân An thuộc tỉnh
Gia Định, một nơi mà ông chưa hiểu mô tê gì hết về con người và vùng đất còn
hoang sơ đó. Ông chỉ mường tượng là xa lắm, đi ngựa hay đi thuyền thì cũng phải
mất gần một tháng mới tới được. Mặc dầu vậy, ông chẳng ngần ngại chút nào. Lòng
nhiệt thành của tuổi trẻ khiến ông vượt qua hết mọi trở lực trên bước đường công
danh đang được mở ra một cách thuận lợi.
Đã gần nửa năm
bận bịu với công việc triều chính, nay ông được phép trở lại quê nhà để chuẩn bị
một ít tư trang và tạm biệt gia đình cùng bà con lối xóm trước khi lên đường.
Những lần trước,
ông đi xe kéo ra tận sông Ô Lâu, dọc theo hữu ngạn khoảng sáu bảy dặm đường rồi
rẽ qua làng Ưu Điềm để về Đường Long. Nay một mình một ngựa ông đi theo đường tắt,
cắt ngang truông cát và nghĩa địa của quê nhà.
Buổi trưa mùa
hè, nắng như đổ lửa. Theo vó ngựa cát tung lên mù mịt. Toàn cảnh khô khốc như
chính ông đang vượt qua sa mạc nào đó trên mặt địa cầu. Truông cát này đối với ông
đâu có gì xa lạ. Ngày còn bé ông cùng bạn bè đã từng đuổi chim, bắt dế, hái
sim, hái móc trên quãng truông này. Bàu Bàn, các rậm sóc mây, cây bứa, cây thị,
cây mưng vẫn nằm rải rác ở đây như còn in đậm dấu vết những ngày thơ ấu, chân đất,
nón lá, leo trèo, chạy nhảy, lăn lóc, mặt mày đầy cát.
Vì vượt đường
dài, con ngựa mình mẩy mồ hôi nhễ nhại, bốn vó trông chừng quá mỏi. Ông thắng cương,
cho ngựa xuống Bàu Bàn uống nước rồi trở lại dưới bụi tre ngà ngồi nghỉ. Trước
mắt ông, con đường thăm thẳm không một bóng người đi qua, có lẽ vì cát nóng muốn
phỏng chân nên chẳng ai dại mà đi đường này, mặc dầu đường cắt ngang bao giờ cũng
gần hơn đường chính. Bao nhiêu ý nghĩ thoáng qua trong trí nhớ. Ông cảm phục những
bụi xương rồng xanh tươi vươn lên giữa nắng lửa và gió cát. Ông học được bài học
về sự chịu đựng của cây cỏ... Ông ngước nhìn, chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa là
về đến đầu làng.
Lâu quá ông
mới được trở về, lòng sung sướng vô cùng. Ông buộc ngựa vào gốc cây cạnh đường
cái có đám cỏ xanh. Ông nhấc nhẹ cánh cổng tre qua một bên rồi bước nhẹ lên khoảng
sân đất nện có giàn đậu ván trái đã ngả vàng. Ngôi nhà ba gian hai chái cổ kính
như còn ngái ngủ giữa nắng hạ chói chang. Ông gọi mở cửa đến mấy tiếng nhưng chẳng
có ai trả lời, chỉ có người hàng xóm nói vọng qua là cả nhà đi vắng hết.
Một lát sau,
mẹ ông nghe tin con, từ ruộng lúa hớt hải chạy về. Ông nhìn thấy mẹ quần ống xăn,
ống xổ, chân cẳng bết bùn đất, mặt mày nhễ nhại mồ hôi, áo vá miếng xanh, miếng
đỏ, lòng thương mẹ vô cùng. Ông nói với mẹ:
- Sao mẹ không
xuống khe rửa ráy rồi về?
- Mẹ nghe
con về mừng quá nên quên hết mọi chuyện. Công việc đồng áng, bùn đất là chuyện
thường. Để ra giếng mẹ rửa cũng được.
- Sao mẹ cứ
mặc mãi chiếc áo này? Nó rách quá rồi!
- Mặc để lao
động mà! Nó rách nhưng mẹ giặt giũ hoài. Hôm trước con gởi cho mẹ cái áo thì để
mặc khi giỗ chạp, đi đây đi đó. Ở làng ni ai cũng ăn mặc tuềnh toàng như nhau cả,
không như trên Dinh!
- Rứa cha đi
mô?
- Cha dựng
nhà giúp cho người ta ở trên Đại Phú, chiều tối nghỉ việc mới về. Em Nghi đang
còn ở ngoài ruộng, tát nước chưa đầy chưa về được. Mấy lâu ni trên Tổng, dưới
huyện cứ đến nằng nặc xin cho nó ra làm việc nhưng nó không chịu vì muốn ở nhà
giúp cha mẹ khuya sớm, trong lúc hai anh đã ra gánh vác việc dân, việc nước, nhà
cửa chẳng còn ai, vắng vẻ lắm.
- Nó nghĩ được
như rứa cũng tốt. Thôi mẹ rửa ráy, nghỉ ngơi.
Cả xóm thấy
con ngựa cột trước cổng biết có quan về. Những người rảnh rỗi ghé lại nhà chơi,
tiếng chào hỏi vang vọng ra ngoài: chào quan Tiến sĩ ạ! Chào quan lớn ạ!
- Kính chào
các cụ, các bác. Các cụ, các bác cứ xem tui như cháu chắt trong nhà thôi ạ!
Không như những
chiều trước, chạng vạng ông phó mộc mới bước vào nhà. Chiều nay, nghe tin con,
mặt trời mới lưng chừng núi, ông đã thu xếp đồ đạc để về và nói với chủ nhà ngày
mai lên sớm để giải quyết mấy công việc còn lại. Lòng ông mừng thầm là sắp gặp được
con. Ông lẩm bẩm một mình: nó đi lâu thiệt! Còn thằng anh nó cả năm chưa về một
lần! Nhớ đứt ruột!
Trong bữa cơm
tối, giữa bộ phản rộng, cả nhà quay quần chung quanh chiếc mâm son đã cũ, bên
chiếc đèn dầu không đủ sáng cứ phật lên phật xuống như muốn tắt mỗi khi có gió
lùa.
Nguyễn Duy đem chuyện được triều đình đề bạt chức Tri phủ ở Tân An ra nói với
cha mẹ. Lúc đầu ai cũng phấn khởi vì thấy con được thăng quan tiến chức. Mới
sau ba năm kể từ khi đỗ đại khoa đến nay mà đã hai lần được Hoàng thượng quan tâm,
triều đình tiến cử. Nhưng sau đó ai cũng cảm thấy lo lắng vì phải đi đến một nơi
chốn mà trong nhà cảm thấy xa lạ như đi sứ qua một nước khác.
Từ nãy đến
giờ, bà phó vừa ăn, vừa chăm chú nghe hai cha con trao qua đổi lại. Tâm trạng của
bà lúc này là rất thương con, sợ con cực khổ ở nơi đất khách quê người, nhất là
bà nghe phương Nam là miền đất mới, sông nước chằng chịt, muỗi mòng, rắn rết ghê
lắm. Bà cứ nghĩ dù con đã đỗ cử nhân, tiến sĩ thì vẫn cứ cần sự chăm sóc của bà
từ miếng ăn, giấc ngủ như thuở còn bú mớm. Bà gắp thức ăn bỏ vào chén con, rồi
nói:
- Hay là con
cứ xin Hoàng thượng làm việc ở trong Nội như cũ để được gần nhà, có mẹ có con. Đi
xa xôi, cách trở khi đau ốm không biết cậy nhờ ai!
Nghe mẹ nói,
Nguyễn Duy nhỏ nhẹ thưa lại:
- Thưa mẹ,
chắc không được đâu mẹ ạ! Khi Hoàng thượng đã quyết thì chỉ có một việc là nhận
lệnh ra đi dù phải vượt non ngàn bể thẳm. Hơn nữa, con cũng muốn đi xa một chuyến.
Người xưa đã nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Con đi, rồi con lại về,
chẳng hề chi mô, mẹ ạ!
Hiểu được tình
cảm của vợ, mẹ muốn gần con là điều chính đáng nhưng đối với việc quốc gia đại
sự thì bao giờ ông phó cũng muốn con cái của mình hăng hái góp sức vào, không nên
sợ khó, sợ khổ mà thoái thác. Ông nói:
- Bà cứ động
viên cho con nó đi, đến đó có người ta với mình, lỡ đau ốm thì có phủ, có huyện
lo. Nếu ngại ngần, xin tới xin lui chẳng được mà bạn hữu trong triều còn cười
chê. Thử hỏi, cách đây đã hơn bốn năm anh nó vào nhận Tổng đốc An Giang, Hà Tiên,
sau qua Tổng đốc Vĩnh Long, Vĩnh Tường rồi lại trở về An Giang, chỉ huy đánh dẹp
bọn Xiêm tận trấn Tây thành bên Chân Lạp, chưa một lần về thăm thì có răng mô!
Ông nói một
hơi dài với vợ, rồi quay qua nói với con:
- Con cứ vui
vẻ ra đi, vào trong đó thế nào con cũng gặp anh con…
Bữa cơm đạm
bạc nhưng vì là bữa cơm đoàn viên nên ai ăn cũng thấy ngon miệng. Sau bữa cơm,
bà phó lại chuẩn bị chỗ nghỉ ngơi cho con. Lòng bà lấn bấn nhiều chuyện.
Vừa đi, vừa
nghỉ, gần cả tháng mới đến được đất Gia Định. Ông cố tìm một số bạn bè cùng lứa
đã vào ở đây công vụ nhưng chẳng gặp ai. Buồn tình, ông lại tiếp tục lên đường
về nhận việc ở Tân An.
Bây giờ, “Hàn
Lâm Viện tu soạn” Nguyễn Duy ở Nội các Triều đình đã trở thành quan tri phủ, người
đứng đầu một cõi. Lúc đầu, ông cố ra sức tìm hiểu địa hình, địa vực, dân tình
thế thái ở đây. Tân An chỉ cách thành Gia Định cũ chừng vài chục dặm đường nhưng
đời sống người dân thì cách biệt xa quá, một nơi tương đối đông đúc, một nơi nhìn
chung còn hoang hóa, dân cư thưa thớt, chủ yếu là dân nghèo khổ từ Định Tường lên
hay từ Gia Định xuống. Trong mấy chục thập niên đầu của thế kỷ 19, Tân An chỉ rộng
hơn mười tám ngàn mẫu tây với bốn huyện, mười tám tổng và hai trăm mười bốn xã.
Về dân tình thế thái thì phần lớn là dân phiêu bạt vì miếng cơm, manh áo hoặc bị
quan lại các tỉnh khác săn đuổi do trốn tù tội. Có điều, miếng ăn, thức uống thì
không thiếu. Cả tỉnh Gia Định nói chung, Tân An nói riêng, ruộng đồng bát ngát,
lúa xanh tốt hai vụ, sông rạch thì tôm cá tha hồ, chim chóc thì vô kể... Sau một
thời gian lăn lộn với công việc, ông thấy dân chúng chỉ biết quần quật lao động,
khai hoang phục hóa; tối về chỉ biết uống rượu, nhậu nhẹt no say rồi lăn ra ngủ.
Nhiều làng chẳng có một người biết chữ, tính toán tiền bạc chỉ biết đếm trên đầu
ngón tay. Muốn được việc lâu dài, trước hết phải cố thay đổi tập quán cuộc sống.
Ông dâng sớ xin mở trường để có nơi cho con em học. Ngôi trường đầu tiên được mở
ở thôn Bình Khuê, nằm về phía tây của phủ Tân An. Dân chúng thấy con cái của mình
có nơi học hành rất là mừng. Đồng thời cùng việc mở trường, ông cho lập “học phủ”
để đặt căn bản lâu dài về việc giáo dục. Vì thương dân nên ông hết sức tận tụy
trong công việc này. Hai anh em Nguyễn Thông, Nguyễn Hài rất hiếu học nhưng cha
mất sớm, gặp cảnh nhà nghèo phải bỏ học nửa chừng. Thương tình ông đã chăm chút
dạy chữ cho cả hai anh em trong suốt thời gian làm Tri phủ ở đây.
Từ khi ông
hiện diện, bộ mặt Tân An đã đổi khác. Dân chúng yên tâm sản xuất, buôn bán làm ăn.
Nạn trộm cắp, tiểu khấu không còn lộng hành như trước. Xóm làng được mở rộng,
nhà cửa khang trang hơn, tiếng cười, tiếng hát vang vọng thôn cùng, ngõ vắng...
Nhưng mới chỉ được hai năm, do thấy được tài kinh bang tế thế của ông, vào năm
Thiệu Trị thứ bảy, triều đình lại điều ông ra làm Tri phủ Quảng Hóa, Thanh Hóa.
Vì nơi đây có nhiều khó khăn, cần một người lãnh đạo thanh liêm, tài giỏi. Năm
sau ông xin phép ở nhà cư tang cha và qua năm Tự Đức thứ hai, sau thời gian cư
tang, ông lại được nhà vua cử làm Tri phủ Quảng Ninh, Quảng Bình.
Ở đâu, ông cũng nghĩ đến dân, đến nước nên ai ai cũng mến mộ. Do sự nghiêm
minh của mình, quan lại dưới quyền ông chẳng ai dám sai quấy, của biếu xén dù
con cá, mớ rau cũng phải từ chối để giữ sự thanh liêm ở chốn công đường.
Thấy được khả
năng và lòng trung trinh của ông, Bố chánh tỉnh Quảng Bình dâng sớ để đề bạt ông
với chức Đại lý tự thiếu khanh tại Nội, hoặc Án sát sứ tại ngoại, với bậc Chánh
tứ phẩm hoặc Tòng ngũ phẩm.
Nhận được sớ
dâng, vua Tự Đức triệu hồi ông về Kinh đô khen thưởng và cho làm việc ở Nội các.
Ở đây, ông trải qua nhiều chức vụ như Hàn Lâm viện Thị độc làm ở Tập Hiền Viện,
cung Khai kinh diên khởi cư chú, là nơi vua thường đến luận bàn việc kinh tế,
chính trị, lịch sử hoặc ngâm vịnh thi phú cùng các quan. Chính tại nơi này, nhà
vua thấy được tài lý luận, biện bác, đối ứng cũng như khả năng văn học của Nguyễn
Duy.
Qua năm sau,
ông được thăng Thị giảng Học sĩ với bậc Tòng tứ phẩm và được cử làm Ất phó sứ
trong phái đoàn đi sứ nhà Thanh, đến ba năm sau mới trở về quê nhà.
Vì bận bịu công
việc Triều chính nên ít khi ông được gần gũi để chăm sóc vợ con, từ bà chánh thất
Lê Thị Đào, con của Bố chánh Lê Khiêm, cũng như bà thứ thất ở Biên Hòa. Chính
hai đứa con lớn là Nguyễn Khâm và Nguyễn Hàm đều do một tay bà chánh thất nuôi
dưỡng, dạy bảo. Cũng may sau này đứa nào cũng trưởng thành, trong thời buổi loạn
lạc dưới đời vua Hàm Nghi, đều bí mật tham gia phong trào Cần Vương, để tiếng tốt
lại cho đời, không đến nỗi làm tủi hổ tiên tổ.
Kể từ cuối đời
Thiệu Trị cho đến thập niên đầu của đời Tự Đức, quân Pháp trong xu thế chiếm cứ
thuộc địa, đã nhiều lần đến bắn phá Đà Nẵng vì nơi đây có càng biển hữu dụng lại
là sống lưng của đất nước Việt Nam. Nhưng có lẽ năm 1858 là cuộc bắn phá ác liệt
nhất. Rigault do Genouilly đã đem 15 chiếc tàu, 3000 vừa lính Pháp, lính Phi và
Y Pha Nho để tấn công Đà Nẵng. Khi Đào Trí, Trần Hoằng điều 2.000 quân đến chống
cự thì hai thành An Hải và Điện Hải đã bị quân Pháp chiếm cứ. Từ triều đình vua
Tự Đức cử hữu quân Đô thống Lê Đình Lý làm tổng thống, Hộ bộ tham tri Phan Khắc
Thân làm tham tán đem 2.000 quân từ Huế vào cứu viện. Sau lại điều thêm quan
kinh lược sứ là Nguyễn Tri Phương từ Nam ra làm tổng thống, Tổng đốc Định Biên
Phạm Thế Hiển làm Tham tán, Tống Phước Minh làm đề đốc để cùng hiệp lực đẩy lui
quân giặc. Tướng Pháp thấy không thắng được bèn kéo quân vào đánh Sài Gòn - Gia
Định rồi lại đưa quân ra đánh Đà Nẵng lần nữa.
Trước tình hình
dầu sôi lửa bỏng đó, Nguyễn Duy tình nguyện xin vào Đà Nẵng tham gia đánh giặc.
Ông đã có cuộc đàm đạo ngắn với vua Tự Đức. Mở đầu, nhà vua hỏi:
- Khanh vốn
quan văn sao lại xin cầm quân ra trận?
- Bẩm Hoàng
thượng: "Đã yêu nước hà tất phải luận văn, võ". Người xưa đã nói: Giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh. Chân lý này đã được thể hiện từ thời Bà Trưng, Bà Triệu...
- Bẩm Hoàng
thượng: Tướng ở trận tiền cần dũng mãnh và mưu chước, dù tiến hay thối thì cũng
để thắng giặc, có nghĩa là tiến thối hợp lẽ. Mấy năm nay hạ thần cũng có để tâm
nghiên cứu binh thư, đồ trận, suy nghiệm binh pháp của Khổng Minh, Ngô Khởi, Hưng
Đạo Đại Vương, chiến trận của Lê Lợi, Nguyễn Trãi...
Nhà vua nghe
giải bày chí lý, đồng ý cho đi và phong Tán lý quân vụ Quảng Nam - Đà Nẵng.
Mặt trận ở Đà
Nẵng lần này rất khốc liệt kể cả lúc Genouilly chỉ huy hay là sau này phó đề đốc
Page thay thế. Trước sự tấn công ồ ạt của cả hai bên, ta thắng được vài trận,
sau đó không chịu nổi đội quân tinh nhuệ, với vũ khí hiện đại, quân ta phải rút
về giữ Nại Kiên và Liên Trì. Một số đồn ven biển bị quân Pháp chiếm đóng.
Do không đẩy
lui được quân giặc, Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển bị nhà vua cách lưu, riêng
Tán Lý Nguyễn Duy thì vẫn như cũ.
“Thua keo này,
bày keo khác” đó là ý chí đánh giặc giữ nước. Nguyễn Tri Phương sau khi bố trí
lại binh lính đồn bót đã ứng chiến rất hữu hiệu trước đợt tấn công mới của Pháp
vào các đồn Trà Sơn, An Hải, Điện Hải, khiến quân Pháp và tàu Pháp phải rút
lui. Nhà vua được cấp báo thắng trận, lòng rất phấn chấn.
Chính sự thắng
trận này mà làm cho quân Pháp nhụt ý chí, sau lại bỏ Đà Nẵng để rút về đánh Sài
Gòn, Gia Định. Cuối cùng khi quân Pháp có ý định chiếm hẳn miền đất này, Tán lý
quân vụ Nguyễn Duy được bổ sung vào quân thứ Gia Định. Khi ông vào đến nơi thì
miền đất rộng lớn này đã rối bời như canh hẹ vì Pháp đã xây đồn bót nhiều nơi để
chuẩn bị đánh bạt quân ta ra khỏi vùng đất này.
Tán lý Nguyễn
Duy cảm thấy lo lắng và thương xót dân chúng vì giặc giã mà phải ly tán, cực khổ.
Ông từng xem mảnh đất này như một phần máu thịt của mình. Dòng sông Sài Gòn, dòng
sông Đồng Nai, Thị Nghè, Bến Nghé vẫn còn đó nhưng không trong xanh, yên bình
như thuở trước vì tàu giặc, súng đạn giặc quần thảo, cày xới. Những kỷ niệm của
cái thời ông vào làm Tri phủ Tân An lại ùa về. Tiếng cười, tiếng hát của dân chúng
ấm no, hạnh phúc ngày trước như còn vang vọng giữa hồn ông. Nghĩ đến đó ông càng
tức giận bọn xâm lược, bọn chuyên toan tính đi cướp nước người làm thuộc địa.
Nguyễn Tri
Phương và các đồng sự đang ra sức một mặt cho binh lính đào hào đắp lũy tiến sát
bao vây đồn giặc, một mặt huy động toàn lực xây dựng đồn Kỳ Hòa để làm nơi cố
thủ. Tán lý Nguyễn Duy cũng đã có mặt ở đây cùng góp sức với anh mình và các tướng
sĩ mong hoàn thành được nhiệm vụ của mình là đuổi được giặc để giữ yên bờ cõi,
mang lại thái bình thịnh trị cho muôn dân. Đồn Kỳ Hòa được xây dựng rộng lớn, dài
3.000 thước rộng 900 thước cao 3 thước rưỡi, dày 2 thước, chia thành 5 ngăn. Đây
là đồn kiên cố nhất ở đất phương nam, kể từ trước đến nay, lại biết kết hợp cả
thế công và thế thủ, tưởng chừng như không có gì lay chuyển, phá vỡ được. Binh
lính, vũ khí, lương thực cũng được huy động tối đa gồm 21.000 quân chính quy,
1.000 tá điền và nếu kể luôn cả số nghĩa quân của các đồn ở thượng lưu sông Đồng
Nai thì số nghĩa quân lên tới 15.000 người và tổ chức canh phòng cẩn mật.
Bên Pháp có
8.000 gồm quân Pháp và Y Pha Nho với vũ khí tiên tiến. Vào lúc rạng sáng ngày
24 tháng 2 năm 1861 dưới sự chỉ huy của Trung tướng Charner, đạn đại bác của Pháp
từ đồn Cây Mai và Ô Ma bắn lên như mưa. Sau đó, quân Pháp chia thành nhiều mũi áp
sát, đánh thẳng vào mặt tiền, vây bọc mặt hậu đồng thời tấn công hệ thống đồn bót
phòng ngự bên ngoài của ta để chặn đường cứu viện. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn
Tri Phương quân ta đánh trả quyết liệt, hai bên đều chịu sự thương vong lớn.
Cuộc đánh
chiếm của Pháp càng lúc càng quyết liệt. Với đội quân tinh nhuệ, tàu to, súng lớn
đã áp đảo binh lính giữ đồn của ta.
Trải qua một
đêm một ngày hôm trước, đến ngày hôm sau 25 tháng 2 năm 1861 thì đồn Kỳ Hòa thất
thủ. Nguyễn Tri Phương bị thương ở tay, tháo lui, đưa quân về giữ thành Biên Hòa,
Tán lý Nguyễn Duy tử trận trước cửa đồn cùng với nhiều tướng sĩ, ta có, Pháp có nằm la liệt cả
bốn mặt đồn.
Nguyễn Duy lúc
hi sinh thân thể khó nhìn ra, chỉ còn áo quần và chiếc đai thắt lưng là dễ nhận,
lúc đầu đem về chôn tạm ở ngoài thành Biên Hòa.
Nghe tin Tán lý Nguyễn Duy và nhiều người tử trận ở Đại đồn Kỳ Hòa, dân chúng
cả nước vô cùng thương tiếc. Đối với Nguyễn Duy “Vua Tự Đức ban gấm đoạn, sô sa
để tẩm liệm, 500 quan tiền để tống táng, đồng thời ra lệnh cho tỉnh Gia Định điều
dân phu hộ tống quan cữu về an táng tại Đường Long quê nhà”.
Sau khi đã được
cải táng, nhân dân thương tiếc đã đắp chỗ mộ cũ thành ngôi mộ giả để kỷ niệm và
một thời gian sau tai xã Mỹ Khánh, Biên Hòa, bên bờ sông Đồng Nai, người ta xây
ngôi đền thờ Trung - Hiếu - Tử để thờ phụng ông, cũng như sau này ở làng Đường
Long quê ông có nhà thờ Trung Hiếu với biển đề "Nhất gia tam kiệt". Tất
cả cũng chỉ vì lòng cảm khái, nỗi ngậm ngùi tiếc thương vô hạn của Nguyễn Thông,
người học trò cũ đã thể hiện qua mấy vần thơ chữ Hán trong bài "Vãn Nguyễn
công Duy Định biên Tán lý" mà Lê Thước và Phạm Khắc Khoan đã dịch như sau:
Cây đại thụ
gặp gió Tây
Một đêm ngã
xuống che ngang cửa đồn
Oai hùng nắm
đất vùi chôn
Ba quân nức nở nhớ ơn những ngày
Thi hài nhìn áo mới hay
Biết đâu hào khí đến nay vẫn còn
Hàng năm trên chỗ đất chôn
Bạn già rót rượu viếng hồn người xưa
Ông đã ngã xuống như một cây đại thụ ngã xuống.
Nhưng bóng cây, bóng người còn mãi giữa hồn sông núi.
Theo chân VNĐL đến chơi đọc được câu chuyện về người con anh dũng của làng Đường Long HĐ có thêm hiểu biết và cảm thấy tự hào là người con đất Việt.Cám ơn VNĐL
Trả lờiXóaCảm ơn bạn đã vào thăm và có lời động viên!
Xóa