Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

SỐ 261 - tác giả INRASARA




CUỘC HÒA ĐIỆU GIỮA SÁNG TÁC VÀ PHÊ BÌNH



1. Thời đại thay đổi, thơ thay đổi. Thơ thay đổi, cách đọc thơ cũng phải thay đổi. Với nhà phê bình đảm nhiệm chức năng thứ nhất thì càng phải thay đổi. Thay đổi thế nào? - Nhà phê bình cần định tính tác phẩm, nói khác đi, nhà phê bình cần nghiên cứu khuynh hướng sáng tác của tác giả, để làm phê bình; qua đó, nhà phê bình trình bày cái hay, cái đẹp của tác phẩm đến với người đọc. Không thể đứng ở hệ mĩ học này để phê bình tác phẩm thuộc hệ mĩ học khác, hoặc ngược lại. Cần phải có thái độ “đi vào trong” tác phẩm để nhận diện. Đó là hình thức thứ ba của Phê bình Lập biên bản.  
Cộng đồng văn học có nhiều bộ phận: người sáng tác, nhà phê bình và độc giả; ở mỗi bộ phận tồn tại nhiều “loại” khác nhau. Về nhà thơ, có thể phân làm ba nhóm.
- Nhóm làm vần hay Nhà thơ cổ truyền, gồm các nhà thơ phường xã, câu lạc bộ thơ hưu trí, thơ báo tường… Loại thơ ưa chuộng là thể thơ cũ, lục bát đậm đà bản sắc, thơ có vần điệu êm tai, dễ lưu truyền và dễ nhớ.
- Nhóm tiếp hiện viết phục vụ cho một tầng lớp độc giả có chọn lọc hơn. Bộ phận này luôn ở tư thế tiếp nhận và thể hiện các thành tựu gần. Họ sáng tác vừa với tầm mong đợi của đại đa số độc giả đương thời, bằng cách mở rộng và khuếch trương thành tích hôm qua của thế hệ trước đó.
- Nhóm khai phá là những kẻ luôn luôn trên đường phiêu lưu khai phá, từ bỏ, thay đổi và làm mới. Họ sẵn sàng làm mếch lòng độc giả đã từng yêu mến họ, kiếm tìm bộ phận độc giả mới, khác. Bởi họ dám thay đổi cách viết, thay đổi cả mĩ học sáng tạo.
Thời gian qua, thuộc Nhóm khai phá có thể kể: các tác giả làm thơ tân hình thức, nhà thơ hậu hiện đại, thơ nữ quyền, thơ thị giác ở đó thơ trình diễn là một nhánh nổi bật. Qua cảm thức và thủ pháp nghệ thuật, không khó phân biệt nhóm thơ này với hai nhóm trước. Giữa Nhóm làm vần và Nhóm tiếp hiện tồn tại sự nhập nhằng, nhưng không phải không thể biện biệt, nhất là qua con mắt người làm phê bình nhà nghề. Riêng Nhóm tiếp hiện, xuất hiện vài kiểu cách tân thuần kĩ thuật, đó là thứ thơ tự đánh lừa và dễ đánh lừa cây bút viết bài điểm sách thiếu kinh nghiệm.  
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào nhà phê bình có thể nhận diện chân tướng chúng, để làm phê bình? Và làm thế nào nhận chân được thực/ giả của “cách tân” hay “làm mới”?
2. Mỗi thay đổi là mỗi gây khó khăn cho sự tiếp nhận. Cuộc cách mạng lập thể đã chẳng từng đối mặt với sự chống báng quyết liệt từ cánh họa sĩ truyền thống sao? Chẳng phải độc giả Pháp, Mĩ đã từng ném bỏ Một mùa địa ngục, Lá cỏ, để không lâu sau đó, cả Picasso lẫn Rimbaud, Whitman được tôn vinh như kẻ khai mào cho cách mạng nghệ thuật, hay kẻ mở đường cho phong trào thơ tự do thế giới? Họ mở đường, và họ chấp nhận thất bại.
Thuở Thơ Mới, Nguyễn Vỹ được xem là nhà thơ ưa thể nghiệm. Ngoài hai bài thơ đặc sắc thuộc hai hệ mĩ học khác nhau (“Sương rơi” – dòng tượng trưng, “Gửi Trương Tửu” – dòng hiện thực trần trụi, tạm gọi thế) đều thành công, cái thành công ít nhà thơ “hạng hai” nào đạt được, còn lại các thể nghiệm khác đều thất bại. Thế nhưng đó không là thất bại vứt đi, mà là tiền đề cho những đột phá sau này. Ở đó, thể thơ mười hai chân là rất điển hình. Thử so sánh hai đoạn thơ sau:
Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng
Ta hãy bước vào se sẽ trong cái im lặng nặng nề
Của nấm mả, của gò cây, của đền đài lăng miếu cũ
                              (Nguyễn Vỹ, “Gửi một thi sĩ của nước tôi”)
Có thể là trái đất mất anh hơn là anh mất nó
Nó mất anh như mất một hạt bụi có nghĩa gì?
Còn anh ngày mai khi đã là linh hồn, anh vẫn nhìn thấy nó
Cha vẫn nhìn thấy con, thấy mẹ, thấy khu vườn
                              (Chế Lan Viên, “Ngàn lau”)
Như thế, kẻ thành công hôm nay không chịu ơn người mở đường thất bại ngày trước? Và thử nghiệm đầy nhiệt tình đó có đáng bị mỉa mai hay vùi dập không?
Không phải không lí do, khi các đại biểu tiêu biểu của các thế hệ thơ Việt Nam thời gian qua không thể chấp nhận nhau, dù họ đều là trí thức hàng đầu ở thời đại họ? Nhà thơ hàng đầu nữa! Cụ Huỳnh Thúc Kháng đòi nọc Lưu Trọng Lư ra đánh roi; trong lúc Xuân Diệu không cho thơ Nguyễn Đình Thi là thơ, thì Tố Hữu chẳng chút ngần ngại khi biên tập thơ của thi sĩ tài hoa đậm tính cách mạng này. Gần hơn, Trần Mạnh Hảo kêu đích danh thơ Nguyễn Quang Thiều là loại “thứ thơ Tây giả cầy”, như thơ dịch, mà dịch rất tồi! Rồi thế hệ thơ hiện đại coi các sáng tác hậu hiện đại không phải là thơ, chứ đừng nói là chúng hay hay dở.
Dù sao, nếu chưa thể thẩm thấu để nhận định các tác phẩm theo xu hướng mới lạ qua lăng kính mĩ học của chính nó thì ít ra, nhà phê bình cũng cần đến với sáng tác kia bằng thái độ khiêm cung. Sự phán định vội vã và tùy tiện chẳng ơn ích gì mà còn tự tay đóng sập cửa vấn đề. Kinh nghiệm đọc của Nguyễn Hiến Lê với nhóm Sáng Tạo là bài học nhỡn tiền. Đánh giá sáng tác của người cùng thời, vị học giả khả kính cho rằng các tác giả theo phong trào này chẳng làm gì ra hồn cả, ngoài món lập dị. Thế nhưng, ở miền Nam, chính nhóm Sáng Tạo chứ không ai khác đã có công lớn trong nỗ lực chuyển hướng và phát triển thơ Việt hậu bán thế kỉ XX.
Một nền văn học là lành mạnh khi mọi trào lưu văn chương được đối xử công bằng. Thái độ công bằng cần thiết của độc giả chuyên nghiệp (nhà phê bình) là tránh đồng hóa mọi sáng tác dị hơm [không thuộc hệ mĩ học truyền thống] vào các loại thơ cách tân để chê trách nó. Họ cần từ bỏ thái độ chấp nệ vào hàng đống bài thơ “cách tân” kém để quy trách trào lưu này “mang tính chất phá hoại”, phản [chuyển] động. Hệ mĩ học nào bất kì chỉ có thể bị vượt qua, khi phần vô ngôn chưa được nói lên của nó được phơi mở trọn vẹn qua sáng tác ưu tú nhất thuộc hệ mĩ học đó.
3. Nhịp thơ chẳng hạn. Ở thơ cổ điển, điều tối kị là rườm lời (có, nhưng rất ít, và không tiêu biểu), thơ hiện đại thì khác. Có thể “thiếu từ” như Trúc Thông:
buổi sáng nguyên/ tâm hồn nguyên/ bạn hiền in nét
lúc
không giọt cà phê đậm/ làu khói thuốc/ sáng – tâm hồn con gái sắp lên hai
… lẳng lặng mũi tên xuyên/ ba chàng trai đã sống trên đời/ nửa thế kỉ/ ba phương trời “Gởi bạn”, Ma-ra-tông (NXB Văn học, H., 1993)
Sự “thiếu” tạo nên chông chênh của nhịp thơ. Cái hay của thơ Trúc Thông là cái hay “thiếu”, Thiều thì ngược lại, cái hay của sự “thừa”.
Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy/ Cho hai hốc mắt tôi như hai ổ cá bống được giàn giụa nước mưa sông” (Sự mất ngủ của lửa, NXB Lao động, 1992)
Nhiều chữ có thể được lược bớt cho tươm tất hơn, mà đoạn thơ vẫn trọn vẹn ý nghĩa. Nhưng sự thừa này góp phần không nhỏ tạo nên nhịp điệu của thơ Nguyễn Quang Thiều. Mà thơ hiện đại, nhịp điệu (rhythm) nội tại mang tính quyết định, chứ không phải vần. Bởi, nói như Ch. Hartman: “Nhịp điệu đóng góp toàn bộ ý nghĩa của bài thơ, và phép làm thơ là chuyển nó trở thành ý nghĩa”.
4. Với chức năng của phê bình văn học, phát hiện ra cái đẹp và quy phạm hóa cái đẹp, thời gian qua, các nhà phê bình đã làm được phần việc của mình. Hoài Thanh đã quy phạm hóa cái đẹp của Thơ Mới, cái quy phạm từng chi phối quan điểm và phương pháp phê bình của nhiều nhà phê bình đi sau: cái đẹp lãng mạn. Rằng thơ thì phải có chất thơ, có hồn, nghĩa là nó gây được cảm xúc nơi người đọc. Thời gian qua, quy phạm đó ít nhiều bị phủ định. Cái đẹp của thơ hôm nay được phát hiện và quy phạm hóa khác: cái đẹp hiện đại, và cả hậu hiện đại (xem thêm: Inrasara, “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại”). Con người không chỉ thuần lí trí (hiểu) và tình cảm (xúc động) mà còn bao gồm cả đời sống bản năng lẫn tâm linh; hiện thực không chỉ là cái thấy được, cảm được mà còn có cả phần ẩn chìm nơi góc khuất của tiềm thức lẫn vô thức.
Trên nền hiện thực mới, xuất phát từ cảm thức khác, nhà thơ có lối nghĩ khác, cách thể hiện và cách nói khác, và dĩ nhiên - cần đến ngôn từ khác. Ngôn ngữ là vốn chung dân tộc, mỗi nhà thơ - bằng tài năng sáng tạo của mình - làm khác bằng cách ghi dấu ấn của mình lên thứ ngôn ngữ chung đó. Chính sự khác này làm giàu sang ngôn ngữ dân tộc, và nền văn học dân tộc.
Hành trình sáng tạo là hành trình của tiếp nhận, chối bỏ, tìm tòi và thể nghiệm. Chối bỏ ở đây không phải là “chôn”, “đưa tang” hay vứt đi mà là, tiếp nhận, tìm tòi và chuyển hướng sáng tạo. Hành trình này xảy ra giữa các thế hệ, trong một thời kì, thậm chí nơi mỗi nghệ sĩ. Có nhà thơ chẳng những thay đổi phong cách tác phẩm mà còn thay đổi cả hệ mĩ học sáng tác.












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét