Tác giả HỒNG CHIÊN
DƯỚI CHÂN NÚI CHƯ PAL
Ghi chép
Trong buổi lễ khai mạc
Trại sáng tác Văn học - Nghệ thuật huyện Ea Kar, tháng 6 năm 2014, anh Nguyễn
Văn Vinh - Phó trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện nói với tôi: Ea Kar có
rất nhiều điểm điển hình các bác đã biết qua báo cáo và báo đài, nhưng có ba
điểm không thể không đến là: Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô - một vùng đất giàu
tài nguyên thiên nhiên mà lực lượng kiểm lâm hàng ngày, hàng giờ đang phải đổ
cả xương máu của mình để bảo vệ, gìn giữ; khu căn cứ cách mạng buôn Trưng - căn
cứ của ta trong thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước và đặc biệt buôn M’Um của
người Êđê, buôn duy nhất của người dân bản địa thuộc xã Cư Prông”. Nghe giới
thiệu vậy, tôi mừng lắm và quyết định sẽ đến thăm buôn M’Um để biết vì sao nó
vẫn giữ được nét truyền thống quý giá như vậy.
Từ thị trấn Ea Kar, nơi
Trại sáng tác đóng quân xuôi theo quốc lộ 26A về phía thành phố Nha Trang
khoảng 10 km đến thị trấn Ea Knôp rẽ phải theo đường vào hồ chứa nước Krông Păc
Thượng, đến trụ sở xã Ea Păn rẽ trái đi tiếp vào UBND xã Cư Prông, đi tiếp 8 km
nữa là đến buôn M’Um - anh cán bộ Phòng Văn hóa - Thông tin huyện đưa đoàn đi
giới thiệu như vậy. Xe chuyển bánh, bon bon trên đường nhựa rải thảm bê tông
rất đẹp, nhiều người xuýt xoa: Sao ở vùng này có con đường đẹp thế! Anh cán bộ
địa phương đi cùng đoàn cho biết: Con đường này làm để đi vào hồ chứa nước
Krông Păc Thượng nên mới được như vậy đấy! Hai bên đường nhà cửa nhân dân xây
dựng rất đẹp, toàn nhà xây, mái lợp tôn lạnh hoặc ngói đỏ tươi như một lời
khẳng định vùng quê trù phú.
Xe qua UBND xã Ea Păn
một chút rẽ trái, con đường trước đây chắc được rải nhựa, nay đã hư hỏng gần
như hoàn toàn, mặt đường toàn ổ trâu, ổ voi, lổn nhổn đá và nhựa cục còn sót
lại. Xe đi như múa trên đường tránh các vũng lầy thêm gần 10 km nữa tới được
UBND xã Cư Prông. Những cánh đồng mía vừa qua thu hoạch, rừng cao su tươi tốt
và những mái nhà làm theo kiểu mái Thái lợp tôn, lợp ngói nối đuôi nhau chạy
qua cửa xe lùi lại phía sau ngầm giới thiệu với mọi người một vùng quê thanh
bình có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Xe qua UBND xã Cư Prông đến một ngã ba, anh
cán bộ Phòng Văn hóa - Thông tin bảo lái xe dừng lại để hỏi đường vào buôn
M’Um. Nhà văn Nguyễn Hoàng Thu cười, hỏi:
- Cậu đã vào buôn lần
nào chưa?
- Dạ, đây là lần đầu
tiên em đi đấy ạ!
Mọi người trên xe bật
cười. Tôi bảo:
- Rẽ trái theo con
đường chạy song song với suối.
- Sao anh biết ạ? Anh
cán bộ địa phương đi cùng đoàn ngạc nhiên hỏi lại.
- Từ năm 1992 trở về
trước, mình có gần 5 năm trời theo người dân vào trong này đi chặt mây và tìm
trầm; ngày ấy nơi đây chỉ là con đường mòn, dân các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn
di cư tự do vào đây phá rừng làm rẫy, đêm đến thường bị hổ xuống bắt trộm chó
và heo nữa đấy.
Nhiều người cùng ồ lên
ngạc nhiên khi trước mắt họ giờ đây là những cánh đồng lúa nước mới vào vụ gieo
trồng, trên cánh đồng màu nối liền đến triền đồi: bắp, đậu các loại xanh mượt
mà, trĩu quả trải dài đến hết cả tầm mắt. Trước đây vùng này là đồi cỏ gianh
xanh tốt kéo dài đến tận chân núi cao mới có rừng già. Mùa khô, chỉ cần một tàn
lửa các quả đồi sẽ thành biển lửa thiêu rụi tất cả, để trơ mặt đất đầy tro
than. Khi mưa xuống cây cỏ đội đất ngoi lên phủ một màu xanh tươi mát rộng hàng
chục km vuông. Khi ấy các loài thú ăn cỏ kéo nhau về từng đàn đông đúc như:
heo, nai, mang, sơn dương, bò tót, voi... trông cứ như cảnh trong phim về châu
Phi vậy. Thú ăn cỏ về nhiều kéo theo các loài ăn thịt như: hổ, báo, chó sói...
cũng tìm đến. Nhiều lần người đi rừng nhặt được cả nửa con heo hay nai chúng ăn
không hết bỏ lại.
Nhà buôn trưởng buôn
M’Um mái ngói, sàn ván, vách ván có 4 gian làm phòng khách, hai gian phía sau
làm buồng ngủ. Trong phòng có giàn Karaoke, tivi màu 21 in; dưới ti vi một tủ
chè kiểu mới và bộ salon lớn. Vợ chồng chủ nhà ra đầu cầu thang đón khách. Ông
chồng cụt bàn tay phải nên đưa tay trái ra bắt, người mảnh khảnh, cao, trán
hói, đầu còn lưa thưa mấy sợi tóc, tuổi chắc cũng phải gần 50. Bà vợ thấp hơn
một chút, nhưng mập mạp, miệng tươi như hoa. Anh cán bộ Văn hóa xã giới thiệu:
Ông Y Bhăn Byã - Buôn trưởng và vợ, bà H’Thuận Niê – Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Cư
Brông. Buôn trưởng Y Bhăn cho biết: hiện nay buôn Um có 35 nóc nhà, 40 hộ, 197
nhân khẩu. Toàn buôn có 02 người kinh là phụ nữ lấy chồng về đây còn lại là
người Êđê. Hiện nay buôn còn 23 hộ 90 khẩu thuộc diện nghèo theo tiêu chí mới.
Tôi hỏi chủ nhà: “Buôn
mình định cư ở đây lâu chưa? Hình như trước kia ở phía bên kia suối Ea Bay chứ
không ở đây”. Bà H’Thuận tròn xoe mắt nhìn tôi, hỏi lại: “Sao anh biết?”. Ông Y
Bhăn trả lời: “Buôn cũ ở chỗ trụ sở UBND xã đóng bây giờ, năm 1962 bọn Mỹ -
ngụy dồn dân lập ấp chiến lược bắt nhân dân về nhốt ở xã Krông Jin, quận Khánh
Dương; sau giải phóng tình hình còn phức tạp nên mãi năm 1985 dân mới vượt cái
đèo kia – ông chỉ lên cái núi hình yên ngựa trước nhà, lên đây làm rẫy, sau đó
ở lại lập buôn ở bên suối dưới chân núi, sau này mới chuyển ra đây. Sao anh
biết buôn cũ”?. “Mình dạy học ở huyện M’Drak từ năm 1977 đến năm 1983 mới đi
học, học xong chuyển về công tác ở huyện Ea Kar, khoảng năm 1988 đến 1992 thỉnh
thoảng có vào đây”.
- Nai... thầy Chiến! H’Thuận
đứng bật dậy, reo lên nắm lấy tay tôi - Em nè thầy, hồi thầy dạy bọn em năm
1978, em và H’Loan hay đi theo thầy với cô Tường cùng quê với thầy đấy, thầy
nhớ không?
- H’Loan có nước da
trắng, mặt tròn ở buôn Um, gần nhà cô giáo H’Ni.
- Đúng đó thầy, ôi vừa
gặp thầy em đã thấy ngờ ngợ như gặp ở đâu, quen lắm mà chưa nhận ra. Thầy vẫn
trẻ thế, bọn em già hết rồi!
Thật bất ngờ khi gặp
lại cô học trò nhỏ bé ngày xưa nay đã là một cán bộ xã, mọi thứ hình như đã
thay đổi, chỉ riêng đôi mắt và nụ cười thì không khác bao nhiêu. Thời ấy tôi là
một thành viên trong đoàn 18 giáo sinh Thanh Hóa được điều về huyện M’Drak công
tác; trong đoàn có mười người cùng quê huyện Nông Cống: tám nam, hai nữ; chúng
tôi ngày lên lớp, tối về thay nhau ôm súng tuần tra canh gác, sẵn sàng chiến
đấu, chống lại bọn phản động Fulrô tập
kích. Năm học 1977 - 1978, tôi và cô Viên Thị Tường được cử đi dạy lớp 3 và lớp
2 mở tại buôn Um. Trường lúc ấy chỉ làm bằng tre nứa, lợp cỏ gianh. Học trò vừa
học nói tiếng phổ thông, vừa học chữ; còn thầy cô vừa dạy chữ vừa học lại tiếng
các em nên vui lắm. Thấm thoắt thế mà đã gần 37 năm rồi, con số mười người
chúng tôi thời ấy nay đã mất đi hai người, họ đã ngã xuống khi tuổi đời còn rất
trẻ, có người bám trụ lại nơi đây đến trọn đời, còn tôi chuyển công tác qua
nhiều nơi trong tỉnh. Có thể nói, lớp chúng tôi ngày ấy đã dâng hiến trọn vẹn
tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cho quê hương mới Đắk Lắk, và góp phần đào tạo,
bồi dưỡng được những thế hệ kế tiếp để gánh vác công việc thế hệ trước giao
lại. Một thời gian khổ, một thời khó khăn cuối cùng cũng đã qua đi, những thầy
cô và học sinh chân đất học trong lớp mái gianh vách đất khi xưa nay đã viết
nên trang sử mới ở vùng đất mới.
H’Thuận xúc động cho
tôi biết: Kinh tế buôn em so với mặt bằng chung nơi đây thì chưa bằng vì cả
buôn mới có 12 ha lúa nước hai vụ, hơn 20 ha trồng khoai mì; dân còn nghèo vì
thiếu đất canh tác, nhưng dù có nghèo mấy cũng không phá rừng thầy ạ. Nhưng
tình hình này không biết giữ được bao lâu nữa, gỗ lớn nhà nước đã khai thác
xong, số còn lại bị lâm tặc ngày đêm trộm cắp; anh bí thư chi bộ thôn lên tiếng
ngăn chặn bọn chúng thì bị chúng trả thù, chặn đánh giữa đường đến phải nhập
viện. Lời nghèn nghẹn và chùng xuống của H’Thuận làm tôi cũng thấy bồi hồi,
trách nhiệm của toàn xã hội nói chung và từng chi bộ, từng cán bộ thôn buôn nói
riêng là vận động đồng bào cùng chung tay giữ rừng; nhưng bọn lâm tặc manh động
hoành hành, thì việc giữ rừng chắc chắn còn nhiều cam go thử thách và rất cần
các cơ quan chức năng cùng chung sức cùng làm.
Buôn M’Um, vẫn chỉ một
con đường duy nhất chạy từ hướng tây qua đông đến buôn và hai bên đường là
những ngôi nhà sàn dài lợp ngói, lợp tôn thay cho mái lá mây, cỏ gianh thuở
trước. Buôn vẫn rất sạch sẽ vì vắng bóng heo thả rông và rất ít gà. Quanh các
mái nhà sàn ấy bóng cây xoài, cây mít trĩu quả đứng khoe sắc. Một số gia đình
đã có chuồng nuôi bò làm xa nhà, đảm bảo vệ sinh. Già làng Y Gút nói với tôi:
Gần một nửa các hộ trong buôn có xe máy, cánh thanh niên thì nhiều đứa có di
động, nhà nghèo cũng có một hai con bò, nhà khá hơn có 5 con. Các cháu đến tuổi
được đến lớp đi học chữ, phong tục cúng bến nước hằng năm vào ngày mùng bốn
tháng một vẫn duy trì thường xuyên; mọi người bảo nhau sống hòa thuận, thế là
vui rồi.
Người dân trong buôn M’Um
họ có cuộc sống rất riêng, không sôi động ganh đua làm giàu, tìm cách làm giàu
như những người trong vùng; họ bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Một vùng quê
thanh bình, êm ả đến khác lạ. Núi Chư Pal cao lắm, rộng lắm, nó là dãy Chư Yang
Sin kéo dài ra; nhưng dù cao, dù rộng đến đâu cũng có giới hạn nhất định, nếu
ta không biết gìn giữ., bảo vệ thì rừng sẽ mất đi. Rừng mất đi, các dòng suối
sẽ khô cạn, và nước sẽ không còn thì lấy đâu ra bến nước để thờ cúng. Cái lý lẽ
đó của người Êđê nơi đây quả thật rất đáng để suy nghĩ. Mong sao những người dân
buôn M’Um sẽ biết làm giàu một cách chính đáng, nhưng vẫn giữ được rừng, giữ
được nét văn hóa đặc trưng tuyền thống dân tộc của người Êđê để lưu lại cho các
thế hệ sau, điều đó qúy giá lắm. Chúng ta hy vọng như thế!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét