ĐINH THỊ NHƯ THÚY
VÀ ÁM ẢNH NHỮNG VIÊN SỎI TRẮNG
Sau khi nhận lời một nhà
văn đàn anh sẽ viết gì đó về Đinh Thị Như Thúy thì tôi mới biết là mình đã… sai
lầm. Bởi té ra là tôi chưa biết gì về Thúy cả. Mới thoảng gặp nhau đâu vài ba
lần trong những đám đông ồn ào. Hồi ấy Thúy lại chưa… nổi tiếng nên cái sự chú
ý của tôi nó cũng không rõ rệt lắm, mà Thúy lại có cách ứng xử ở đám đông khá
lạ, ấy là lánh xa, cứ lặng lẽ ở một góc nào đó, có thể là để quan sát, cũng có
thể là do tính cách nó thế, mà tôi lại có cái kiểu viết chả giống ai là toàn
lôi ký ức ra… nhai.
Thì cho đến nơi ở của
Thúy tôi cũng không nhớ, cứ nghĩ là Krông Buk, trong khi chị lại ở Krông Pắc,
“thôi thì Pắc hay Buk thì cũng… Krông cả”, tôi đã chữa thẹn khi bị Thúy trách
trong một cái mail: “Anh Hùng thiệt tình…, đến cái tên huyện em ở cũng không
biết. Em ở huyện Krông Pắc mà?”. Thì ra là cô gái Huế, cho dù sinh ở Đà Nẵng,
cũng vẫn mỏng và nhẹ lắm, theo tiếng gọi của tình yêu mà bỏ Đà Nẵng, “thành phố
đáng sống nhất Việt Nam”, để theo một anh học cùng trường nhưng khác khoa, khoa
toán, về tận cái huyện mà bây giờ khi gõ trên máy tính vẫn phải 2 lần thao tác
mới xong, còn đọc thì trẹo miệng, để ban đầu là dạy cấp 2, sau đấy là dạy cấp
3. Mà nào có ít ỏi gì, hơn 20 năm ở cái huyện heo hút ấy để mới cách đây 2 năm,
chị chuyển về thành phố mà chị sinh ra. Thế mà lạ, tưởng đi là giải thoát, té
ra không phải, chị vẫn nhìn cái nơi chị sống, đã gửi cả thời tuổi trẻ của mình
ở đấy, một cách đầy trìu mến và biết ơn. Con người lạ thế, có nhiều khi không
lý giải nổi mình. Ngay như tôi đây, lên Pleiku từ cái thời mà đói khổ là đương
nhiên, bây giờ nghĩ lại còn rùng mình, thế mà bao nhiêu lần có cơ hội về các
trung tâm đô hội lớn vẫn không dứt ra mà đi được. Ngay bây giờ, nhiều bạn bè
vẫn không thể hiểu nổi khi tôi bảo, mình vẫn sẽ ở đây cho đến già. Trở lại
chuyện Thúy với Krông Pắc, chị viết về nó thế này, trong một đoạn thư trả lời
phỏng vấn tôi đọc khá lâu rồi: “Tôi sống ở huyện Krông Pắc của tỉnh Đắc Lắc từ
năm 1989. Tính đến năm 2012 khi chuyển về Đà nẵng là đã hơn 20 năm. Hơn hai
mươi năm sống và gắn bó với một vùng đất có làm cho nơi đó trở thành quê hương
không anh? Những đứa con đã được tôi sinh ra và nuôi dạy ở đây. Mỗi buổi sáng
thức dậy, mở cửa nhìn ra bầu trời, tôi có thể hình dung được hôm nay, mùa này,
kiểu thời tiết gì sẽ diễn ra, những người dân sẽ làm công việc gì cho mùa màng
của họ. Tôi nghe tiếng chim hót cùng với tiếng xe máy cày chạy rầm rập. Nơi
đây, những biến chuyển của đất trời, sự lam lũ mệt mỏi của con người, đều không
xa lạ với tôi.
... Nơi
ngày đông gió thổi là bài thơ dài tôi viết về Tây Nguyên, nơi tôi sống và
gắn bó đã hơn 20 năm nay. Một vùng đất kỳ lạ. Nắng bụi. Mưa bùn. Cây cỏ. Gió.
Côn trùng. Tất cả đều có gì đó hoang dã, khắc nghiệt nhưng lại rất đẹp đẽ, lôi
cuốn. Tôi đã viết về những điều đó bằng những ám ảnh và những rung cảm thật sự
của bản thân mình. Tôi nghĩ rằng sẽ có người đọc bài thơ đó và biết thêm một
điều gì đó về Tây Nguyên. Một Tây Nguyên không chỉ có cồng chiêng, thổ cẩm,
rượu cần mà còn có những thay đổi sống động của thiên nhiên, đất trời qua từng
thời điểm, và tình yêu, và# những buồn vui, được mất của những con người nhỏ
bé, lương thiện nơi này”... Thư cho người khác mà đặt trong bài viết này như là
chị gửi cho tôi…
Thúy
có một lối viết rất lạ, viết như những ý nghĩ rời rạc trong đầu, rồi thả nó ra
như những viên sỏi trong tay một chú bé lơ đãng, thế nhưng khi nó thành hình
thành ý thì nó lại cứ âm âm trong đầu người đọc, nó không u minh để đánh đố
nhưng cũng không rành mạch để lười nhác. Nó khiến người đọc phải cuốn vào, phải
day dứt và nhớ. Tôi nhớ có một cuộc trao đổi ở Hội An về thơ Thúy sau khi nghe
Thúy đọc thơ ở Hội nghị văn trẻ năm nào đấy, có một nhà thơ kiêm giáo sư văn
học nói: Thơ Thúy buồn lắm, và Thúy bắt người khác phải buồn theo, khiến cho
đọc rất mệt. Mình mệt thì được rồi, mắc chi bắt người khác mệt theo? Tôi có kể
cho Thúy nghe chi tiết này, chị cười: Chuyện đó cũng bình thường mà anh. Mình
viết mà để người khác mệt và buồn theo thì cũng là hạnh phúc, tất nhiên là hạnh
phúc… bất đắc dĩ. Ít nhất là thơ mình cũng có người đọc, người nghe, và họ cảm
nhận thế nào là quyền của họ. Cũng có thể có người nào đó, đọc thơ mình một
lần, và đó là lần duy nhất, thì ngược lại, cũng có những người tìm thơ mình để
đọc. Nhưng đúng là khi viết, nhiều khi tôi bị chi phối quá mạnh bởi cảm xúc của
mình, cứ nghĩ chỉ viết cho mình, riêng mình thôi. Nếu tỉnh táo quá, liệu có còn
khả năng thu hút…?
Bây
giờ thì không nói, có thế giới phẳng, giao thông cũng thuận tiện, cái việc ngăn
cách giữa địa phương này với địa phương kia, giữa nông thôn thành thị… nó không
u minh mù tắp lắm nữa. Nhưng hai chục năm trước, đang còn gửi thư bằng bưu
điện, gọi điện thoại thì có người đi kêu hoặc hẹn giờ ấy giờ ấy đến lảng vảng
chực ở cái điện thoại bàn duy nhất của cơ quan, một cô giáo ở tận một huyện heo
hút như thế, làm thơ mà “nổi” lên được quả là một sự lạ. Ngay bây giờ, nói là không
ngăn cách, là gần nhau như sau một enter nhưng rõ ràng là vẫn có rất nhiều bất
cập từ những người hành nghề viết lách tỉnh lẻ, từ mặc cảm tỉnh lẻ đến thông
tin đến giao tiếp, đến công bố tác phẩm và đặc biệt là công chúng. Điều ấy để
nói rằng Thúy có một nội lực rất mạnh, một sự lan tỏa tự thân, vượt qua khoảng
cách, qua không gian, qua các áp lực cả vô hình và hữu hình, để tồn tại như một
chứng nhân của “hữu xạ tự nhiên hương”, như bản thân mình là thế, chứ không cần
đánh bóng, lăng xê, không cần chạy chọt làm mọi cách để nổi tiếng. Thậm chí có
cảm giác Thúy luôn lảng tránh những đám đông, lảng tránh những ồn ào văn
chương, kể cả các sự kiện chính đáng, lặng lẽ thu mình lại quan sát và suy
ngẫm. Ngay chuyện chị chuyển về Đà Nẵng mấy năm rồi mà đã mấy người biết? Như
người khác thì đã lên mạng khoe ầm ầm, công bố ầm ầm. Chị cũng có một tài khoản
facebook nhưng vào xem thì thấy chủ yếu là để cho người khác tag vào rồi chị
nhẹ nhàng comment: dạ cám ơn, hoa đẹp quá…
Mà
cái lý do để Thúy cầm bút ban đầu nó cũng đơn giản, ấy là cái vùng chị dạy học
ấy, học trò rất ít sách để đọc, chỉ đọc những gì trích trong sách giáo khoa.
Đến cả giáo viên cũng vậy. Thế nên chị viết, tất nhiên là từ nội lực, từ sự
thôi thúc tự thân, từ cái khả năng trời cho, và không ngoại trừ cho chính học
trò mình, cho mình, để chống chọi với cái cô đơn, cái thiếu hụt, cái cảm giác
vừa thừa thãi vừa bâng khuâng mỗi khi chiều xuống ở cái thị trấn phố huyện
nghèo Tây Nguyên ấy. Ai đã ở Tây Nguyên những năm 80, 90 của thế kỷ trước thì
hiểu được tâm trạng của những người như Thúy. Giản đơn nó đi một nhẽ, đằng này
lại là cô giáo dạy văn, thừa nội lực để viết, đủ cảm xúc để thấy buồn, thấy
trống vắng, thấy cô đơn- cái cô đơn vượt lên nỗi cô đơn thông thường, cô đơn
của người viết- của những buổi chiều, những bình minh, và cả những ban trưa đỏ
rực ba zan và bụi và gió và những mong manh thấp thỏm của những xa vắng kiếp
người, cái cô đơn ngay giữa những người thân, ngay giữa gia đình mình, nỗi cô
đơn trời hành. Tôi cứ hình dung Thúy trong những ngày những tháng những năm
Krông Pắc ấy để rồi tự hỏi: Nếu không viết chị sẽ làm gì? Và nếu chí thú như
những người khác, với chồng với con, với heo gà, với khoai lang su su, với
những rẫy cà phê “bỏ thì thương vương thì tội” của công chức một thời thì có
một Đinh Thị Như Thúy hôm nay không? Nói thế nhưng tôi biết chị đã rất tận tụy
với gia đình, với chồng, với con, với cha mẹ anh em của cả 2 bên, một nỗi tận
tụy rất đàn bà, cũng như chị đã hoàn thành sứ mệnh một cô giáo dạy văn từ cấp 2
đến cấp 3, hoàn thành trách nhiệm của một công chức thời khó khăn ở một ngôi
trường huyện, để rồi từ đấy chị vượt lên, bay qua những khoảng cách vô hình,
những mặc cảm vô định, trở nên một hiện tượng trên văn đàn, đến với người đọc
khắp nơi…
Tôi và Thúy bắt đầu có
những trao đổi Email từ khi nhận lời viết về Thúy cho tạp chí Nhà Văn và tác
phẩm. Những email rời rạc vì thời gian này Thúy liên tục gặp “hạn”. Cứ rời rạc
chắp nối thì tôi hình dung ra một mình Thúy bươn bả vất vả thế nào. Chuyển việc
từ Krông Pắk về Đà Nẵng, một việc không hề dễ dàng đối với những công chức
nghèo hiện nay, làm nhà, chồng ốm khá nặng, con trai đi thăm bố thì bị lật xe
gãy tay mổ đến 2 lần, và mẹ thì cũng nhập viện… Thúy không muốn tôi kể những
chuyện này vào bài nên tôi chỉ lướt như thế chứ ở ngoài nó còn “nan giải” hơn
nhiều. Cũng chắp nối thì té ra quê của mẹ Thúy rất gần quê tôi. Ngày xưa học
đại học mỗi lần từ trường về nhà, nếu đi xe đạp thì tôi hay đạp theo đường
Anlosia, tức An- Lỗ- Sịa. Sịa chính là quê
ngoại của Thúy, giờ đang xây ở đấy một thành phố vệ tinh cho Huế. Còn
quê nội của cô cũng gắn với một câu ca dao nổi tiếng: Không đi thì sợ chính
phủ tình nghi/ Mà đi thì sợ Đồng Di, Tây Hồ. Đồng Di thuộc xã Phú Hồ huyện
Phú Vang, vì thế mà Thúy nhận mình là Huế nhưng không phải Huế thành Nội hay Kim
Long. Những người Huế xa quê thường nhớ Huế bằng một nỗi nhớ rất lạ, nó vừa như
ăn năn lại vừa như mang nợ, dù họ, bằng cách này hay cách khác, đã tình nguyện
rời quê để chọn nơi khác làm quê. Người Việt tha hương cũng nhiều, nhưng cái
cách tha hương của người Huế lại khác. Ấy là khi ở với Huế thì rất ấm ức, khó
chịu, tìm cách để đi, nhưng đi rồi thì nhớ, thì luôn luôn muốn trở về, nhưng là
chỉ về thăm. Tôi nhớ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần nói, trên thế giới có
2 dân tộc rất lạ là Palestin và… Huế, là làm gì thì làm, ở đâu thì ở, hàng năm
đều tìm cách trở về. Về thăm rồi lại đi. Và khi đi thì luôn đau đáu mình là
Huế, đau đáu nhớ đau đáu tìm dịp trở về.
Tháng 1 năm 2009, Thúy về
Huế để nhận tặng thưởng về Thơ của Tạp chí Sông Hương. Khi được mời lên
phát biểu chị đã không nói được gì. Vốn không phải là người ứng khẩu nhanh
nhạy, lời mời lại đột ngột quá nên chị lúng túng. Chị sinh ra ở 32 Phủ Hoài
Đức, phường Phú Cát, nhưng giờ chị thấy mình lạc lõng ở ngay nơi mình sinh ra,
bởi số phận đã không cho chị gắn bó với Huế. Tôi hiểu cái sự mặc cảm và cả tủi
thân của Thúy, tôi cũng là một gã Huế xa quê, cũng từng có những mặc cảm như
thế, bởi từ cả 2 phía, đến một lúc nào đấy, nó hết, bởi biết bao người Huế bây
giờ có phải là Huế gốc đâu, những người như Thúy, dẫu không sinh ở Huế, không
sống ở Huế, lại trở thành Huế zin. Thúy làm thơ về Huế thế này: Mỗi ban mai/
Những ám ảnh của giấc mơ đêm đè nặng/ Như chiếc đòn gánh trên vai người thiếu
phụ chân đất đầu trần/ Gánh đậu hủ qua cầu Bạch Hổ ban trưa/ Hai tà áo gió cuốn
về hai phía (Người đàn bà không giấc ngủ). Một sự sẻ chia với
cái nghèo bằng một hình ảnh rất Huế. Sự mưu sinh vất vả, và những giằng xé khác
trong bản thân mỗi người mà sự vất vả thân xác kia chỉ là một, là cái cớ…
Thế nhưng, cái phần Huế
ấy chủ yếu hiện ra ở con người, giọng nói, cách sống của Thúy, chứ phần chữ của
chị, tôi thấy Tây Nguyên đã chiếm gần hết. Đọc thơ chị, tôi hình dung ra từng
cái bậc đá đi xuống một quán cà phê Cao nguyên mà chị và bạn bè hay ngồi, hình
dung ra những con đường đầy gió những giấc mơ đầy gió và những thảm quỳ đầy
gió. Hình dung ra những đôi mắt nâu ngơ ngác trong chiều, những bàn chân ám
bụi, những vạt đồi phóng đãng xuyên tắp chân trời với thăm thẳm nỗi niềm mà nếu
ai chưa một lần đặt chân đến sẽ không hình dung được, ở đó có cỏ xanh hoa đỏ và
những thắc thỏm thời gian cô đặc như viên sỏi chậm rãi dịch mình bên bờ suối. Ở
đó hơn hai mươi năm của đời một người con gái từ thiếu nữ thành bà mẹ 2 con, từ
một cô giáo lơ ngơ thành một nhà thơ nổi tiếng. Tôi vẫn tin về Đà Nẵng chị cũng
sẽ vẫn viết, nhưng nỗi ám ảnh Tây Nguyên trong chị cũng sẽ không bao giờ dứt,
dù nó không hiện ra trong chữ thì nó ở hơi chữ, không ở nội dung thì ở hình
thức, không ở hình thì ở bóng, không ở đời thực thì ở những giấc mơ… Và tôi
thấy không thể không hỏi thêm chị mấy điều. Và thế là câu hỏi phóng đi, gần
tháng sau thì câu trả lời phóng về, tất nhiên, qua mail:
Bên cạnh rất nhiều người thích thơ chị thì cũng có nhiều người không thích.
Có bao giờ chị tìm hiểu tại sao không?
Việc thích và không thích thơ văn của một tác giả nào đó là chuyện bình
thường anh ạ. Tuy nhiên tôi có đôi chút hoài nghi. Tôi nghĩ có người đọc mình
và không thích thật. Nhưng có người họ nói theo, hoặc đọc lõm bõm. Bởi đôi lúc
đây đó tôi thấy họ cứ nói chung chung, hoặc trích thơ cứ lẫn lộn. Có người khi
nói về tập “Ngày linh hương nở sáng”, để minh chứng họ bèn dẫn một bài từ tập
“Cùng đi qua mùa hạ”. Thật khó tin họ có đọc mà lại dẫn bừa như thế.
Xê dịch, thay đổi môi trường là mong muốn của nhiều người cầm bút, nó như
chất xúc tác để ta có một không gian rộng hơn, có thể tăng trải nghiệm, làm mới
mình… cuộc hạ sơn của chị vừa qua có ý nghĩa gì?
Việc đi, nếu chỉ là sự dịch chuyển của đôi chân cho lạ mắt lạ tai thì có
khi chẳng giúp được gì cho người viết đâu anh, ngoại trừ việc viết ra vài bài
văn chương du lịch theo kiểu cảnh lạ đường xa. Có người chỉ ở một nơi nhưng đi
bằng đầu bằng suy tưởng có khi lại “đi” được nhiều. Vậy nên xê dịch, thay đổi
môi trường cũng chỉ để làm mình mới lên nhưng cũng không chắc làm tác phẩm mình
mới lên được đâu.
Tôi chuyển về lại Đà Nẵng là vì các con của tôi. Con trai lớn của tôi đã về
học ở Đà Nẵng mấy năm nay. Tôi cũng muốn bọn trẻ được về thành phố, sống gần ông bà và các cậu dì. Nếu chỉ là sự chọn lựa cho vợ chồng tôi, có
khi tôi lại không về.
Thúy
có lối viết rất đặc trưng, rất Đinh Thị Như Thúy, ấy là vừa rất cụ thể, cụ thể
đến cá biệt, nhưng rồi từ đấy người ta lại thấy thấp thoáng có ý nghĩ của mình
trong ấy. Không biết chị có nhận ra điều này không, tự nó đến hay chị cố tình thế.
Kiểu viết này nó vào cả tản văn của chị nữa. Thơ chị cũng sử dụng câu rất dài,
rất tự nhiên, như cái đường mòn hun hút mà lại gập ghềnh của một lối xuống quán
cà phê vườn nào đó, chữ cứ rải ra như đá cuội, và những dây cỏ lòa xòa quấn
quýt những thảm rêu. Người bước vào phải
gượng chân mà tránh, và vì thế mà phải cẩn thận, phải rất nâng niu, cả sỏi, cỏ,
con đường và bàn chân… Có lẽ cái ám ảnh Tây Nguyên của một cô gái đồng bằng, và
ngược lại cái nhớ, sự hoài vọng cố hương của một cô gái gắn toàn bộ tuổi trẻ
của mình với vùng đất lạ đã khiến chị có lối viết đặc trưng ấy. Lại chợt nghĩ,
liệu có bao giờ chị có ý định thử sắp xếp nó lại, như người sửa sang cổng ngõ,
xếp đặt ngăn ngắp nhà cửa để đón tết chẳng hạn? Là nghĩ vớ vẩn thế chứ nếu thế
thì nó chẳng còn Đinh Thị Như Thúy, chẳng có “Nơi ngày đông gió thổi”, chẳng có
“Ngày linh hương nở sáng”, chẳng có “Cùng đi qua mùa hạ”, “Phía bên kia cây
cầu”…
Vừa là 1 cô giáo, vừa có
gien người Huế, nhỏ nhẹ và thùy mị, nếu phải ngồi trong 1 cuộc nhậu, Thúy sẽ
làm gì? Hò hét, cụng ly hay im lặng rót bia, nhắm người khác?
Tôi rất ít có mặt trong các cuộc nhậu. Nhưng nếu có mặt có thể tôi chỉ cụng
ly và ngồi nhìn. Tôi nghĩ nhìn ngắm mọi người là cách hiện hữu giữa đám đông
của tôi. Nhưng, còn tùy không khí của cuộc gặp nữa chứ. Nếu ngồi giữa những
người tôi yêu quý thì biết đâu khi đấy tôi lại khác.
Bây
giờ thì tôi phát hiện, viết về Thúy khá dễ, dù phải khá lâu, và tôi chỉ việc
ghép những gì chúng tôi trao đổi qua
email. Khi ghép tôi vẫn ám ảnh những viên sỏi, rải xuống cái ngõ của một quán
cà phê Cao nguyên, đầy gió với rười rượi những đôi mắt nâu…
Ông này tán hơi... rỗng!
Trả lờiXóa