THƠ HỒ XUÂN
HƯƠNG
LÀ TIẾNG LÒNG
CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Trong văn học Việt nam nửa cuối thế
kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa,
bởi vì thơ của bà trước hết là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương sinh ra vào cuối triều
Lê (1592-1788) tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, trong thời kì đầy
những nhiễu nhương, biến loạn của xã hội phong kiến. Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam đã đem
đến cho thơ văn tiếng nói chung của những người phụ nữ, những tiếng than
và những tiếng thét, những tiếng căm hờn với những lời châm biếm sâu cay. Ai cũng
biết ở chế độ phong kiến, sự đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng chua xót, tái tê.
Họ là những người “Chân yêu tay mềm” làm lụng đầu tắt mặt tối, đói cơm rách áo,
và bị trăm nghìn thứ lễ giáo ràng buộc bất công. Hồ Xuân Hương chỉ muốn dùng ngôn
ngữ thơ ca để nói lên nỗi đau khổ riêng có tính chất giới tính của mình và sự bất
công đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Nhà thơ xoáy sâu vào
các ngóc ngách, sự éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần
cay đắng, mà nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống rập khuôn theo những chế ước bất
công của lễ giáo. Thơ Hồ Xuân Hương mục đích là công kích vào quyền lực của chế
độ thối nát mà chủ yếu là người đàn ông. Ở thời đại lúc bấy giờ, đó là điều tối
kỵ nên đã tạo ra một cú sốc và gây khiếm nhã đối với cá nhân bà. Chính vì thế mà
những bài thơ của bà đã có tiếng vang với tài xuất chúng về sự thông minh, nhạy
cảm, dí dỏm ẩn chứa trong thơ của bà. Với thái độ gợi tình của mình, Hồ Xuân Hương
quay sang cái sống động khôn ngoan và ẩn dụ trong các bài thơ của mình. Trong bài
Cảnh chồng chung, theo bà vợ lẽ chẳng qua chỉ là một người đi làm
mướn, thậm chí còn tệ hơn, đó là người làm mướn không công: “Cố đấm ăn xôi,
xôi lại hẩm/ Cầm bằng làm mướn, mướn không công”. Cuối cùng bà đã
căm phẫn thét lên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!” Trong bài viết về
người phụ nữ không chồng mà chửa, bà không trách cứ mà chỉ biện hộ cho người phụ
nữ: “Cả nể cho nên hóa dở dang”. Người phụ nữ chỉ yêu cầu người đàn ông
một điều là phải nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây là chuyện tình, chuyện nghĩa,
chuyện một con người chứ không phải là chuyện bình thường: “Cái nghĩa trăm năm
chàng nhớ chửa”. Còn cái kết quả đó, người đàn ông không dám nhận, thì “Mảnh
tình một khối thiếp xin mang”. Cuối
cùng nguời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thấy không thể sống quỳ gối mãi được,
nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, bằng lời lẽ đanh thép:
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. Hồ
Xuân Hương là nhà thơ yêu con người, yêu cuộc sống. Tình cảm khẳng khái và
chân thành trong thơ Hồ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu bên trong một
nụ cười mỉa mai và cay độc. Đối với Hồ Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn
là những giọt nước mắt. Và trong bài Thiếu nữ ngủ trưa ngòi bút của
nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh về người phụ nữ hết sức sinh động: “Đôi gò bồng
đảo hương còn ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa thông”. Hồ Xuân Hương ví thân phận của người phụ nữ như chiếc bánh trôi “Thân
em thì trắng, phận em tròn/ Bảy nổi ba chìm với nước non/ Rắn nát mặc dầu tay kẻ
nặn”; hay như quả mít “Da nó xù xì, múi nó dày”; hoặc là con ốc nhồi
“Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”... Hồ Xuân Hương luôn chú trọng nêu bật cái
đẹp bên trong tâm hồn của người phụ nữ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng
“múi nó dày”, còn chiếc bánh trôi: thì “Rắn nát mặc dầu tay kẻ
nặn”, vậy mà “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Hồ Xuân Hương còn lên tiếng đề cao, ca ngợi người phụ nữ, tìm thấy vẻ đẹp
thực sự chân chính ở họ. Những điều đó chỉ có ở Hồ Xuân Hương một bản lĩnh, một
trái tim nhân hậu, nồng ấm và sự cảm thông, sẻ chia của một tâm hồn nghệ sĩ. Trái
tim ấy cùng chung nhịp đập với những thân phận phụ nữ bất hạnh. Hồ Xuân Hương
thay họ nói lên những tiếng nói phản kháng, thách thức, tuyên chiến với lễ giáo
phong kiến “trọng nam khinh nữ”. Thơ của Hồ Xuân Hương là những nỗi niềm không
chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến
ở thế kỉ XIV.
Ẩn sâu trong những bài thơ của Hồ Xuân Hương
là tình yêu, là khát vọng sống bình đẳng của người phụ nữ. Bà đấu tranh không
khoan nhượng, mong làm cho thân phận người phụ nữ đẹp hơn, bình đẳng và trong sáng
hơn. Hồ Xuân Hương phản đối mọi giáo điều tư tưởng, đạo đức, những tín ngưỡng
xa rời thực tế đang áp đặt lên thân phận của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương không
phải là nhà chính trị hay nhà tư tưởng nhưng những bài thơ do bà viết ra đủ để
lên án cái phi lý, bất công và bất nhân đối với người phụ nữ, đang tồn tại
trong chế độ phong kiến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét