Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

số: 249 - tác giả HỮU CHỈNH



KHÚC TRÁNG CA CỦA NÚI RỪNG
(Đọc Từ sông Krông Bông – Tiểu thuyết của Trúc Hoài –
NXB Công an nhân dân – 2012)

Với khổ giấy 14,5 x 20,5 cm, in chữ nhỏ mà cũng gần 600 trang, cho thấy Trúc Hoài có sức viết của người lực điền, cần cù cày xới trên trang giấy khi đã ở tuổi bảy mươi.
Tiểu thuyết dựng lại thời kỳ chống Mỹ gian khổ, ác liệt ở chiến trường Đắk Lắk mà tác giả là nhân chứng, dòng Krông Bông làm biểu tượng chứng kiến sự bi hùng của giai đoạn “ra ngõ gặp anh hùng”, có thể một đi không trở lại.
Ở chiến trường Đắk Lắk, ngoài việc đánh giặc, làm công việc chuyên môn còn lo tự túc lương thực, có ăn mới tồn tại để mà chiến đấu. Có chuyện thật mà như bịa, những người mới về cơ quan nào, sau khi gặp gỡ chào hỏi dăm ba câu là được phân chia dao quắm và hướng dẫn cách sử dụng. Phát rẫy, đốt rẫy, gieo trồng, đuổi chim thú, thu hoạch, bảo quản là cả một quá trình tích lũy kinh nghiệm:
“Ông Tâm điều khiển đốt rẫy như chỉ huy một trận đánh. Ông vừa văng tục vừa quát bảo phải lựa cây nhỏ, khô, lót một lợp thật dày rồi mới khiêng cây chất lên tiếp… Gió càng lớn. Tất cả những ngọn lửa vặn mình, vật vã, lúc phóng lên cao như muốn vọt thẳng lên trời, lúc bổ nhào phả trên mặt rẫy một cách giận dữ. Rồi lửa cười rần rật. Gỗ cháy nổ mọi cỡ âm thanh.”
Xa hậu phương miền Bắc, xa cả Trung ương cục miền Nam, nằm trong Khu V nhưng Bộ Chỉ huy Quân khu lại ở Quảng Nam, cho nên Đắk Lắk chỉ được chi viện người là chính. Vũ khí, thuốc men còn thiếu thì nói gì đến lương thực, thực phẩm. Việc phải đổi miếng ăn bằng máu thường xuyên xảy ra khi nhà cửa, đất đai, hoa màu, nông cụ đều là mục tiêu hủy diệt của Mỹ, huống gì là con người. Cánh đồng Lờ Lư ở Khuê Ngọc Điền lúa đã chín rục mà trực thăng ngày nào cũng quần đảo, không ai dám ra cắt lúa. Một chú bé ở thôn Ba làm giao liên đã có sáng kiến: Làm áo tơi cỏ để người mặc đi cắt lúa lẫn vào màu cỏ, màu lúa: “Chằm áo tơi cỏ thì dễ ợt, sẵn tre, sẵn cỏ, có nhắm mắt ai cũng chằm được. Mang áo tơi, ruộng ai nấy gặt. Nếu có giúp nhau, một nhóm hai ba người thôi, không tập trung đông, chết chùm. Thì mình chấp nhận cái chuyện nó bóp cò, nghề nghiệp của nó mà. Nó muốn mình sợ, đứng nhìn lúa, rồi chết đói”. Gian nan thử thách giữa cái sống và cái chết mà vẫn lạc quan, có chút tếu táo làm giảm độ căng thẳng của chiến trường ác liệt. Đồng bào Khuê Ngọc Điền bị bom đạn đánh phá, bị địch càn quét phải bỏ dinh điền chạy dạt vào rừng. Lấy gì ăn để sống? Câu hỏi đặt ra cho mỗi người ở mọi nơi, mọi lúc và trong cả cuộc họp của thôn về chuyên đề tìm cách lấy khoai, sắn từ dinh điền cũ: “Chỉ lo bom nổ chậm, biết nó nổ lúc nào. Rồi các loại mìn dày đặc. Nào là mìn clây mo bọn bộ binh gài đâu đó. Nào là mìn vướng từ máy bay rải xuống thì càng mù mịt hơn, không lường trước được nó vướng ở đâu. Rồi bọn bộ binh bảo an chia thành tốp nhỏ, bí mật phục kích cho đến chiều tối. Bà con lúi húi đào mì, chúng nổ súng, nếu không chết tại chỗ, cắm cổ chạy thoát thân, lại vướng mìn. Quả thật, chúng đã biến cái dinh điền vất vả trù phú này thành miền đất chết”.
Nguồn lương thực ngoài khoai, mì, lúa, bắp còn rau, chuối, cà, ớt… đều nằm trong cái bẫy của tử thần. Càng hiểu vì sao Krông Bông thành huyền thoại. Riêng Khuê Ngọc Điền có hơn sáu nghìn dân, sau khi bị chết, o ép, xúc tát và một số đi thoát ly hoạt động cách mạng chỉ còn hơn ba trăm người. Trần Trương, Bí thư H9 (Krông Bông) nói với tôi: “Đây là gạo trên sàng, ngọc trên sàng!”.
Tôi là người vào Dak Lak giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh nên mấy anh chị bám trụ và vào trước bảo tôi: sướng hung rồi! Sướng là vùng giải phóng đã mở rộng, không bị địch truy đuổi, dồn ép. Sướng là vì có khoai, mì, bắp, đậu, rau và những ngày lễ tết còn có gạo nấu cơm. Không gian khổ đạn bom như những người đi trước. Chẳng riêng gì Khuê Ngọc Điền mà từ Thăng Lễ, Quảng Cư đến Phước Trạch, Vụ Bổn hay Buôn Khanh, Buôn Ngô, Buôn Chàm đến Đắk Tua, Ea Chố, Năng Tâng, Năng Tí… Suốt dải Krông Bông chứng kiến nỗi đau mất mát gắn với sự tích kiêu hùng. Nếu không được nghe trực tiếp nhân chứng kể lại thì khó tin là sự thật. Tôi được Ba Lại, người Xã đội trưởng và chú Xứng (ba của em Đích, người thật, có tên trong tác phẩm của Trúc Hoài) kể rằng: Muốn đi đào khoai, đào mì, muốn lấy bắp, lấy rau phải cầm cành le nhỏ, dài quơ phía trước xem có vướng dây mìn nào không để còn gỡ hoặc khóa kíp mìn. Phía sau có sẵn cáng thương, bông gạc. Biết là có thể chết vì miếng ăn nhưng vẫn phải làm.
Trúc Hoài tập trung nhiều trang bi thương về việc giành giật cái ăn. Nhiều trang đẫm nước mắt. Đây là trang viết về cái chết của Khánh, khi cô đi cắt lúa bị trực thăng bắn trúng mặt, vỡ đầu: “Cô gái mới đến cầm bàn tay người chết lên coi. Cô rút ra chiếc nhẫn, lau vô vạt áo cho sạch bùn, rồi bấm đèn pin, xem kỹ. Một lúc, cô không nói gì, hất chiếc mũ tai bèo ra phía sau gáy, để lộ khuôn mặt dân dấn nước mắt. Cô lục túi áo bà ba của người chết, rút ra chiếc lược màu trắng, dài bằng nửa gang tay. Cô ngước mặt nhìn bà con xung quanh, rồi nhìn chiếc nhẫn, chiếc lược. Cô bật lên tiếng khóc và giọng mếu máo nói với người đã chết và nói với cả người đang sống:
- Trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni, hở Khánh? Rứa là mi bỏ tao rồi!”
Chi tiết cái nhẫn, cái lược cho ta thấy con người khát yêu, khát sống, còn thanh xuân và chuẩn bị lấy chồng. Thế mà bị chết vì đi cắt lúa để tìm cái ăn. Rõ ràng là bi kịch của chiến tranh.
Bi kịch còn đẩy lên mức độ cao hơn khi có người chết vì đói: “Một người đàn ông mặc áo bà ba đen, quần đùi đen, ngã nằm úp sấp trên con đường mòn. Gánh lúa nặng văng sang một bên. Anh thôn đội trưởng vừa gọi, vừa lật người ông dậy. Ông ta đã chết. Xem kĩ, không thấy vết đạn, cũng không thấy dấu rắn cắn, chân tay còn nguyên lành… Mặt ông xanh như tàu lá, má hóp sâu, bụng thì lép kẹp. Như ri thì chắc do đói quá mà ngã xuống chết”. Vì là nhóm người đi cắt lúa, không có cuốc xẻng nên huyệt mộ được đào bằng dao găm. Trên trời chiếc máy bay L.19 vẫn u u, hai cánh lấp lóa vẫn soi mói, đe dọa. Có một chi tiết khá đắt, đó là trong nhóm người cắt lúa, có mụ Quý nhà đông con mà mót được ít lúa nhất, mọi người để mụ Quý mang gánh lúa của ông về mà nuôi con. Đoạn văn thật cảm động: “Người đàn bà phủi phủi cho hai tay áo phẳng lại, rồi bước tới phía chân ngôi mộ. Bà quỳ hai gối xuống, chắp hai tay lạy ba lạy. Khi ngẩng mặt lên, Hà thấy khuôn mặt đầy xúc động của bà đã ướt tràn nước mắt, giọng nức nở: Cầu mong ông ở chín suối yên bề. Xin ông phù hộ cho bà con còn ở lại”.
Sự sống bắt nguồn từ cái chết. Văn chương nhân loại đã có nhiều biểu tượng tái sinh. Trúc Hoài được thừa hưởng và học tập được nhiều trong văn chương Nga – Xô Viết qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nên cũng theo lý tưởng đó mà thể hiện trong tiểu thuyết.
Gian nan tìm cái ăn nên một lần cùng đoàn người đi nhổ mì về, Hà bị thương do vướng mìn, nhưng may chỉ vào phần mềm lại được Hồng Thắm băng bó nên vẫn gánh được gánh mì.
Hai người có cảm tình với nhau nên đi cuối đoàn, kịp cho Hồng Thắm tặng hộp cao Sao vàng cho Hà để ngày mai mình chuyển công tác sang thôn Năm. Hộp cao đó lại đựng muối, sau này mới biết. Đỉnh điểm được đẩy lên thành bi kịch. Hồng Thắm chết ngay trong đêm đó khi rẽ khỏi lối mòn để đi tiểu. Rớt xuống hầm đột ngột, lưng nặng gùi mì, bị bể bóng đái mà chết không kịp kêu: “Một cái hầm cá nhân lâu ngày, cỏ mọc phủ miệng. Dưới ánh đèn pin, hai vạt áo bà ba đen, bao mang cũng màu đen hiện ra. Hồng Thắm trong tư thế ngồi bó gối. Anh Mẹo đưa tay vô mũi cô và bảo mọi người cùng đưa cô lên. Hà trải chiếc võng của Hồng Thắm tặng anh xuống cỏ. Hồng Thắm nằm ngay ngắn không hề động đậy”. Đó là cái chết lặng lẽ, đau xót, bi ai, chỉ chiến trường Tây Nguyên mới có. Nhớ lại ngày mới gặp, K’Pa Púi và Minh Phong ở Đoàn văn công Đắk Lắk. Lúc ấy rẫy của hai cơ quan Văn hóa, Giáo dục kề nhau. Nghỉ trưa cùng vào ngồi dưới gốc cây to ven suối Ua, tôi hỏi về việc chuyên môn của anh. Nhạc sĩ của núi rừng trả lời: Chuyên môn của tao là phát rẫy, bạn của tao là dao quắm! Điều này lý giải vì sao Trúc Hoài có nhiều trang viết về giành giật cái để ăn như vậy. Tính chân thực của chiến tranh ở Đắk Lắk khác biệt với nơi khác là như vậy.
Trúc Hòa ưu ái xây dựng nhân vật thằng Đích cũng là người thật ở Ban Giáo dục, tuổi thanh niên đói ăn, đói ngủ nên còi cọc như con nít. Đích bảo: không sợ Mỹ, chỉ sợ đói. Nó chỉ ước ao sau ngày chiến thắng được về quê ở Châu Ổ để má nấu nồi cơm bự ăn với nước mắm cá mòi. Mơ ước thật giản đơn.
Kẻ thù định hủy diệt ta bằng mọi cách. Chúng rải chất độc để diệt màu xanh sự sống cũng là diệt tất cả và để di hại về sau. Nguy hại nhất là chất độc dạng nước: “Chất độc trắng đục như sương mù thì rớt xuống đâu, cứ nằm nguyên chỗ đó. Miếng rẫy bị chất độc rải xuống, sau năm sáu tháng, khi đi qua, mùi tanh ói còn bốc lên nồng nặc. Đói. Đói. Đói. Cái đó thì chắc chắn rồi… Nhưng cái gì sẽ còn lại”.
Như vậy khát vọng ăn cũng là khát vọng sống, khát vọng chiến đấu ở chiến trường Đắk Lắk mà tiểu thuyết đã phần nào lý giải. Đó cũng là thành công khi viết về đề tài chiến tranh từ một vùng đất, vì một vùng đất.

***

Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, dân tộc ta phải đương đầu với kẻ thù hùng mạnh hơn, man rợ hơn với vai trò sen đầm quốc tế. Lớp thanh niên phần lớn có trình độ văn hóa cấp II, cấp III, không ít người tạm xếp bút nghiên từ các giảng đường đại học, được giác ngộ và tự giác ngộ vì sự sống còn của cả dân tộc mà sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì lý tưởng.
Lứa tuổi hai mươi của một thời sống đẹp, quê hương ở miền Bắc còn bố mẹ già, đã có vợ con hoặc mới chỉ bâng khuâng xao xuyến với bóng áo hồng, áo trắng nào đó đã sẵn sàng viết đơn tình nguyện đi B (chiến trường miền Nam). Bên cạnh đó là lớp học sinh miền Nam tập kết ra miền Bắc, trưởng thành sau mười năm rèn luyện, xin trở về giải phóng quê hương.
Cùng với đội ngũ chi viện, tiểu thuyết còn có nhân vật là người thật, kiên trung bám trụ, nằm vùng từ thời chống Pháp được cài cắm lại mà quê ở Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên… Không ít người đã cà răng, căng tai cho dễ hoạt động. Rồi những người dân Quảng Nam – Đà Nẵng do trung dũng kiên cường mà bị hốt lên Đắk Lắk bị kìm kẹp trong các dinh điền cùng các ama, amí, Y, H’ được tuyên truyền giác ngộ cùng tạo nên làn sóng đấu tranh bởi sẵn lòng yêu nước nồng nàn. Tất cả hội tụ ở chiến trường Đắk Lắk qua tiểu thuyết của Trúc Hoài. Giữa chiến trường ác liệt, tình yêu muôn thuở vẫn vút lên cung bậc, lãng mạn và bi ca, tráng ca như đời vẫn vậy.
Nhân vật Hà đã nói ở trên được Thắm có cảm tình tặng hộp cao Sao vàng đựng muối (nên nhớ, muối thời điểm đó quý hơn vàng). Hà là con một nhà khảo cổ học, em gái được chọn đi học ở nhạc viện Traicốpski của Liên Xô. Hà rời giảng đường đại học để đi B, khi có mối tình thơ mộng với học viên trường múa là Phương Đông, dù chưa hẹn thề: “Ta yêu em biết mấy nhưng ta không nói lời hẹn ước khi lên đường. Bởi ta biết lắm, phía trước cuộc đời em đường mở rộng thênh thang. Còn phía trước đời ta, có bom đạn và thử thách”. Thế hệ sinh viên để lại giảng đường, để lại người yêu, để lại gia đình trên miền Bắc với mục đích thực hiện lý tưởng, hoài bão của mình là góp phần giành độc lập cho đất nước.
Thực tế hoàn cảnh chiến trường và nhựa sống thanh xuân phơi phới nên Hà đã xúc động và yêu Nguyệt, một cô gái khá đẹp, làm văn thư của Ban Tuyên giáo: “Thu Nguyệt mặc bộ bà ba đen, ngồi đánh máy dưới hố bom sâu hoắm, bốn bề đất đỏ tươi. Đợt bom thứ ba, cánh rừng rung chuyển, đất rung chuyển, đất tung lên, rơi xuống ào ào trên đầu Nguyệt… Thu Nguyệt ở trong máu thịt, trong từng nhịp thở của ta. Cô ấy là cuộc sống của ta.”
Đám cưới Hà – Nguyệt chờ đợi mãi rồi cũng đến. Tôi cũng từng chứng kiến đám cưới thời chiến. Có đám cưới, chi bộ Đảng phải họp để có nghị quyết cho giã mấy gùi lúa, cử những ai đi bắn thú rừng… Đám cưới trong tiểu thuyết của Trúc Hoài đặc biệt điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ấy là mùa khô năm 1967, địch đã rải chất độc hóa học trước đó nên hết cả lương thực. Đêm cưới lại bị cháy lán nên máy bay L.19 đã bắn rốc két xuống khu lán. Ngôi nhà hạnh phúc cũng tan nát. Phó bí thư Chi bộ là ông Tâm thấy hoàn cảnh đó nên cho Nguyệt – Hà ra rẫy Cây Sung (coi như phòng tân hôn). Ông còn dặn: “- Nhớ xách cái nồi ra rẫy, bẻ mấy trái bắp nấu ăn tối. Bắp mới héo râu, ngon không biết chê đâu được.
Nguyệt hỏi lại ngạc nhiên:
- Dạ, Chi bộ mới ra nghị quyết không được ăn bắp tươi, chờ bắp khô vỏ mới được thu hoạch mà chú…
- Ừ còn chuyện nghị quyết thì khỏi lo, tao nói nhỏ với ông Chín một tiếng. Trường hợp đặc biệt mà. Không lẽ cơ quan tiếc một nồi bắp tươi để mừng tân hôn hai đứa bay sao.”
Đây là chi tiết đắt, tình người sáng lên lấp lánh, đó cũng là bản chất cộng sản chân chính. Kẻ thù vẫn rêu rao: cộng sản không có tình. Nhưng không phải thế, chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc nên nhiều khi phải dằn lòng cam chịu, gạt bỏ tình riêng cho tình chung vì nước, vì dân.
Hạnh phúc ở chiến trường chỉ tính từng ngày. Sau đám cưới, địch càn vào căn cứ. Hà và Y Krô chặn địch cho cơ quan rút vào hang đá. Hà bị thương ở chân, không nhảy qua được khe đá nên bị rớt xuống hang. Mọi người dùng dây thả Y Krô xuống hang tìm kiếm. Đến lượt Tám xuống, thấy tiếng ú ở, biết Hà còn sống, mọi người đã mừng. Cùng lúc đó, hai máy bay AD6 quần đảo. Mọi người phải tránh để đá khỏi lăn đè vào người khi chúng thả bom. Bom dội khoảng nửa giờ, đá lăn xuống ầm ầm, lấp dần khe đá nơi có Hà ở dưới.
“Tám đưa cho Nguyệt chiếc mũ tai bèo màu tím đậm. Cậu nói:
- Em gởi chị chiếc mũ của anh Hà. Nó nằm trên mặt tảng đá xuống hang. Chị ơi!
Tám ôm cánh tay Nguyệt, khóc nức nở. Nước mắt che mờ đôi mắt to của Nguyệt… Giọng Nguyệt mếu máo:
- Không lẽ chồng tôi chỉ còn lại như vầy sao?... Để cho tôi nhìn thấy chồng tôi ngã xuống chỗ nào?”
Chiến tranh đẩy sự sống và cái chết chỉ còn gang tấc. Vừa có nụ cười hạnh phúc lại đến tiếng khóc bi ai cắt lìa đôi lứa. Khúc bi tráng từ dòng Krông Bông là vậy. Câu nói của Nguyệt đau xé lòng, gieo vào tâm khảm lên án chiến tranh.
Bên cạnh mối tình Nguyệt – Hà, Trúc Hoài còn mất nhiều trí lực để xây dựng, bồi đắp máu thịt cho nhân vật Quang và Thanh Xuân. Quang là đội trưởng đội công tác có năng lực, kiên cường, dũng cảm bám địa bàn. Một lần thấy anh trinh sát Tỉnh đội bị thương nên mang giúp ba lô. Địch đánh phá nên hai người thất lạc nhau. Không ngờ trong chiếc ba lô đó có máy định vị là cây nhiệt đới mà địch rải xuống, anh trinh sát nhặt được, mà anh đâu có biết là cái gì, định mang về hỏi anh em. Thế là Quang mang tội, Quang ở đâu là máy bay đánh phá ở đó. Tổ chức nghi ngờ, tách Quang khỏi đội công tác để đi trông rẫy. Sau khi giải oan được cài cắm vào Buôn Ma Thuột làm tình báo, đóng giả làm con trung tá ngụy Phan Văn Mẫn đúng lúc Mẫn hấp hối, không phân biệt thật giả, giao con nhờ bạn chăm sóc, nâng đỡ, đưa vào làm việc tại tổng hành dinh quân đoàn II của tướng Vĩnh Lộc. Đây là tâm trạng của Quang trước khi đi, đã gần một năm chưa gặp mặt Thanh Xuân: “Vậy mà chỉ còn mười mấy giờ nữa thôi, anh lại lên đường, đến một nơi chưa xác định. Lại xa em không biết đến bao giờ… Vậy thì ngay bây giờ, em hãy ra mảng rừng già ấy đi, để anh ôm súng AK đứng gác đầu suối cho em tắm, như ngày nào.”
Chiến tranh có những khoảnh khắc đẹp và lãng mạn như vậy. Rồi Thanh Xuân cũng đến nhưng lại từ chối lời cầu hôn của Quang: “Em thương anh, em muốn làm vợ anh lắm lắm… Nhưng em không thể làm vợ anh được.”
Chính Quang cũng thấy lạ, Thanh Xuân đã giải thích cho Quang hiểu và có cả dẫn chứng cụ thể là những chị cùng cơ quan đã sinh ra những đứa con dị dạng, không được làm người nên có bà mẹ đã phát điên. Vì quá yêu nên Thanh Xuân không muốn làm gánh nặng cho người yêu. Chuyện dừng ở đó, đã có người giục Quang lên đường. Trước khi đi còn gửi Thanh Xuân đồ mừng đám cưới Nguyệt – Hà: mấy cuộn chỉ, một lố kim và tấm dù hoa. Chiến trường chỉ có vậy thôi nhưng là tình yêu thương chan chứa. Sau khi Quang đi, tâm trạng của Thanh Xuân nặng trĩu: “Không lẽ, đến ngày hòa bình em xuống tóc đi tu, vô chùa làm một ni cô gõ mõ suốt đời. Em còn có ai nữa để sum vầy. Xe GMC chúng nó chở xác cha mẹ em đổ ra ngoài gò giữa đồng. Em gái em chúng nó quẳng xuống giếng. Em đã đội xác chết để đứng lên, không lẽ em lại bơ vơ trên mặt đất này. Anh Quang ơi! Anh có thấu?”
Đoạn văn thật xúc động. Đau đớn tột cùng, hờn căm tột cùng nên yêu thương tột cùng. Điều đó cũng giải thích vì sao chúng ta dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Nhưng Thanh Xuân không được dự đám cưới Nguyệt – Hà. Trên đường về gặp L.19 quần đảo, phóng rốc két để gọi pháo 150 trên cứ điểm đồi Chư La bắn cấp tập. Thanh Xuân hy sinh có một phần lỗi của Thuần: “Anh ngẩng mặt lên, thấy phía trên mô đất, bầu trời đêm không trăng nhưng rất sáng, thấy những mảng mây trắng lớn đang trôi với muôn vì sao lấp lánh. Đám cháy lùi lại phía sau nhưng lá khô hai bên dải đất hẹp vẫn tiếp tục cháy lan tới phía trước, tạo nên hai đường viền bằng lửa dọc theo bước chân Thuần. Và cứ mỗi bước lên cao, Thuần như đang ôm thi thể Thanh Xuân lên gần bầu trời đầy sao ấy.”
Đoạn văn có hồn, nâng tầm sự hy sinh như về chốn thiên đàng. Trúc Hoài để Hà rồi Thanh Xuân chết, còn Nguyệt và Quang lẻ loi. Bi kịch của chiến tranh là thế. Nhưng mỗi sự hy sinh đều trở thành tráng ca. Gộp lại thành khúc bi tráng rừng xanh bên dòng Krông Bông – biểu tượng của chiến trường Đắk Lắk.
Tiểu thuyết khá dài, mở ra nhiều bình diện. Tôi chỉ tạm cày xới hai điểm nổi trội. Đó là việc phải tự túc lương thực, có ăn mới tồn tại mà đánh giặc. Cả quân, dân, chính, Đảng đều như vậy. Đến gần cuối cuộc chiến tranh mới được chi viện lương thực. Nên nhiều người hy sinh vì tìm cái ăn thật tức tưởi, đau lòng. Bên cạnh đó là tình yêu đôi lứa, họ biết hy sinh cái riêng cho cái chung để quê hương, đất nước được độc lập, hòa bình.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng chỉ được hun đúc, nảy sinh, phát triển khi cả dân tộc phải lao vào cuộc quyết đầu chống lại cái ác để khẳng định bản lĩnh của dân tộc trường tồn từ nghìn xưa với lời khẳng định của Lý Thường Kiệt:
            Nam quốc sơn hà Nam đế cư
của Nguyễn Trãi:
            Mở nền thái bình muôn thuở
của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
            Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Tiểu thuyết Từ sông Krông Bông của Trúc Hoài phần nào lý giải sức mạnh dân tộc đã chiến đấu, hy sinh ở chiến trường Đắk Lắk, góp phần vào chiến thắng kẻ thù hung hãn nhất của nhân loại.
Tác phẩm khá thành công khi tái hiện chiến trường Đắk Lắk nhưng người đọc có thể yêu cầu cao hơn với tác phẩm. Đó là, dù đã có nhắc tên Ama Bốc, Y Krô, H’Đrai… nhưng các nhân vật người dân tộc thiểu số chưa đủ xương thịt làm nên nhân vật điển hình, mà đã là tiểu thuyết viết về Đắk Lắk thì không thể không có. Cùng với đó, đôi lúc tác giả lạm dụng kiến thức các ngành khoa học, nghệ thuật đưa vào tác phẩm nên làm loãng chủ đề.
Điều khẳng định là tác phẩm chân thực, xúc động, được viết ra bởi lửa nhiệt tình nung nấu, lòng tri ân với đất và người mà bản thân mình là nhân chứng, cùng chiến đấu trong những ngày sống đẹp của cuộc đời mình.
Tác phẩm là khúc tráng ca của rừng xanh, dù có trang bi ai nhưng những sự hy sinh mang lý tưởng thẩm mỹ.


                         Tháng 1-2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét