NHỌC NHẰN SÁNG TẠO VĂN CHƯƠNG
Lao động trong mọi lĩnh
vực đều vất vả, đều tạo ra những giá trị vật chất hoặc tinh thần quan trọng và
cần thiết cho cuộc sống. Lao động nghệ thuật nói chung, lao động sáng tác văn
chương nói riêng là một công việc vô cùng nhọc nhằn do những đặc điểm riêng biệt
của nó. Những người dám dấn thân vào văn chương đều là những cá nhân có khí phách,
có tài và thiên lương. Tất cả đều đáng quý, đáng trân trọng và cần được hỗ trợ để
họ cống hiến nhiều hơn, tốt hơn cho nền văn học, văn hóa nước nhà.
Lao động trong lĩnh
vực văn chương phải là những người làm việc thực sự nghiêm túc. Người viết đương
nhiên phải có tài, có tâm... nhưng thái độ nghiêm túc trong suốt quá trình sáng
tạo là điều cốt yếu tạo nên kết quả cuối cùng. Nói về điều này, nhà văn Nam Cao
khẳng định: cẩu thả trong mọi nghề đều khốn nạn nhưng cẩu thả trong văn chương
là khốn nạn nhất. Vincent Van Gogh cũng khẳng định: “Nghệ thuật không nước đôi.
Nghệ thuật không nửa vời. Nghệ thuật không san sẻ. Hoặc bạn là nghệ sĩ, hoặc không.
Đã làm nghệ thuật thì đừng tham vọng gì khác. Đã có tham vọng gì khác thì thôi nghệ
thuật”. Nghề văn không chấp nhận kiểu làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm.
Kiểu làm việc này chỉ tạo ra những tác phẩm nhàn nhạt, xuất hiện một lần rồi sẽ
vĩnh viễn nằm im trong quên lãng. Nó ru ngủ người đọc và cản trở sự phát triển
của văn chương....
Khi đã quyết định dấn
thân vào nghề văn thì phải chấp nhận từ bỏ tất cả để toàn tâm, toàn ý và sống
chết với văn chương. Phải chấp nhận bao khốn khó và ai mạnh mẽ chống cự lại được
với nó sẽ thành công, sẽ đến được với chân trời vinh quang vì văn chương luôn hướng
con người tới Chân - Thiện - Mỹ, phản ánh một cách sinh động nền văn minh và văn
hóa dân tộc, đồng thời phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của chính tác giả.
Nhưng trước khi được nếm trải những giây phút ngọt ngào ấy, đầu tiên người viết
phải đối mặt với bao “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách
thơ” (Xuân Diệu). “Ai bảo mắc duyên vào bút mực/ Suốt đời mang lấy số
long đong/ Người ta đi kiếm giàu sang cả/ Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông”
(Nguyễn Bính). Muôn đời nay vẫn thế, khó khăn lớn nhất của người viết văn là phải
đối đầu với những rắc rối về kinh tế. Người viết phải làm việc bằng tất cả năng
lực, đạo đức nghề nghiệp của mình một cách hết sức nghiêm túc và nhọc nhằn nhưng
công sức làm việc của họ không được đền bù một cách xứng đáng nên họ vẫn thường
xuyên bị cơm áo ghì sát đất.
Nếu những nghề khác,
người lao động luôn có sẵn một lượng công việc cụ thể để làm thì đối với nghề văn,
người lao động không bao giờ có sẵn một công việc nào mà phải tự tìm, tự tạo ra
công việc cho mình. Đây là khó khăn lớn của nghề viết nhưng chính nó lại là bản
chất của sự sáng tạo. Để tìm được một vấn đề có thể viết được thành bài, thành
tác phẩm đã là một khó khăn lớn và không mấy người vượt qua. Có đề tài, xác định
được nội dung sẽ viết, nhưng việc hoàn thành nó lại là một khó khăn lớn hơn. Phải
mất nhiều thời gian và công sức để thu thập tài liệu liên quan cho bài viết. Phải
xử lý nó một cách hợp lý và khoa học. Phải tìm ra phương pháp và nghệ thuật hiệu
quả… Nhưng như thế vẫn chưa đủ, nếu người viết không có một lượng kiến thức nền
tảng đã được tích lũy trong suốt quá trình học tập ở nhà trường và những trải
nghiệm thực tế cuộc sống cũng như những kiến thức tự cập nhật, tự tích lũy thì
cũng không có cách nào hoàn thành bài viết.
Tuy vậy, tiền nhuận
bút của mỗi bài viết lại thường không đủ cho việc “đầu tư tái sản xuất” như mua
thêm sách, vở, tài liệu để tiếp tục viết tốt chứ chưa nói gì đến các chi phí khác.
Để hoàn thành một cuốn sách, phải mất trung bình từ một đến hai năm nhưng nhà văn
chỉ nhận được khoảng ba đến năm triệu tiền nhuận bút. Đó là chưa kể nhiều nhà văn
phải tự bỏ tiền túi để xuất bản. Ngoài ra, “Vấn đề bản quyền và tác quyền được
nhắc đến nhiều, nhưng chưa được áp dụng triệt để hoặc tương xứng. Cuối cùng, người
chịu thiệt thòi nhất vẫn là tác giả - người đã “vắt óc” để có được tác phẩm nghệ
thuật” (Trầm Thiên Thu).
Nghề văn quả là một
nghề khắc nghiệt, vì “Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo
một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu suy
nghĩ, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có” (Nam Cao). Để đáp ứng yêu cầu này nhà văn phải làm việc bằng tất cả trí
tuệ, tâm huyết và vắt kiệt khả năng của mình. Càng về sau càng phải nỗ lực hơn
nhiều để không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình. Người viết giống
như một cây nến, muốn tỏa sáng phải tự đốt cháy chính mình. Ánh sáng ấy càng rực
rỡ, càng tỏa rộng thì thân thể mình càng hao mòn nhanh hơn. Đó là một quy luật
nghiệt ngã nhưng nhà văn phải chấp nhận vì đó là bản chất của nghệ thuật và không
ai có thể làm khác được.
Trong xã hội hiện đại,
con người có xu thế coi trọng những giá trị vật chất, kinh tế cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của các loại hình giải trí, các phương tiện thông tin đại chúng
thì nhà văn còn phải đối diện với sự thờ ơ của công chúng. Đó là chưa kể đến những
trở ngại từ những người đọc có trình độ, năng lực thẩm mỹ yếu, đạo đức kém và
thói quen quy kết tùy tiện khiến cho nhà văn phải nhiều phen khốn đốn...
Sau mỗi lần miệt mài
lao động một cách nhọc nhằn và hoàn thành bài viết, nhà văn sẽ tự nhận thấy mặt
mày mình nhầu nhĩ đi nhiều, mắt sâu hơn, thêm nhều vết nhăn xuất hiện. Đó là dấu
vết của mỗi quá trình sáng tạo vì người nghệ sĩ lao động nghệ thuật “bằng cách
tự nhào nặn mình trong cuộc sống, qua hành động, và cũng tự nhào nặn thường xuyên
qua lao động nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra
nội dung, sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết, lúc ta vào
xưởng vẽ là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể
hiện ra bằng tay vẽ, tay viết. Làm như là đã mang sẵn tác phẩm trong tâm trí và
chỉ việc phiên dịch ra bằng ngôn ngữ nghệ thuật, bằng chữ hay bằng nét vẽ hoặc
màu sắc! Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn hay vào xưởng, anh
chỉ mới có cái “khung”, chỉ mới có một niềm xúc động. Nhưng anh còn phải lao động
đổ mồ hôi để cụ thể hóa niềm xúc động ấy, để cho niềm xúc động ấy đầu thai vào
những hình tượng, thành những hình tượng. Anh còn phải vật lộn trầy xương với cái
vật chất của chữ, của vật liệu, của đường nét, của màu sắc, của âm thanh, làm
cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang hình thành, mà không
có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành được”.
Rõ ràng quá trình
lao động của nhà văn là quá trình vật lộn khốc liệt mà có lẽ chỉ những ai đã từng
tham gia vào công việc này mới có thể hiểu và cảm nhận hết những nỗi nhọc nhằn,
vất vả và cả những trăn trở đến mức có khi phải ngồi bật dậy giữa đêm đông lạnh
giá... Nói về điều này, nhà thơ Thanh Thảo khẳng định: “Thơ đúng nghĩa là sự
bộc lộ tận cùng của nhà thơ. “Chảy ra từ huyết quản, chỉ có thể là máu”,
một nhà văn nổi tiếng đã viết như vậy. Điều đó cũng đúng với thơ. Nếu ai đó coi
thơ là “trò chơi” thì nó là trò chơi bật máu, trò chơi mà nhà thơ phải cược vào
đó cả đời mình, thậm chí tính mạng của mình”. Người lao động trong lĩnh vực
văn chương bao đời nay vẫn lạc quan chơi “trò chơi” bật máu để tạo ra những tác
phẩm mang các giá trị vĩnh hằng, nắm giữ vai trò quan trọng và quyết định trong
việc hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống, tình cảm của mỗi con người. Tuy vậy,
người sáng tạo ra những tác phẩm như thế không dễ dàng nhận được những đền đáp
xứng đáng và kịp thời. Thực tế cho thấy “Bao nghệ sĩ đã từng chịu vất vả,
thiếu thốn, đến khi được quan tâm thì có người đã thành “người thiên cổ” hoặc
chỉ còn sống những ngày cuối đời” (Trầm Thiên Thu)! Điều này khiến cho Nguyễn
Bính cũng phải thốt lên rằng: “Nhất kiêng cấm lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm,
con ơi, bạc lắm con”.
Bao đời nay người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật dẫu có đôi lúc vì quá
nhọc nhằn, cơ cực mà thốt lên những lời thở than nhưng đó chỉ là những giải bày,
những chia sẻ cho vơi đi nỗi lòng... Trước khi dấn thân vào nghề ai cũng ý thức
được những khó khăn và cả những sự “bạc bẽo” thường tình nhưng vì lòng yêu nghề,
sự đam mê văn chương và trách nhiệm với nền văn học nước nhà mà họ luôn mạnh mẽ
chấp nhận và nỗ lực vượt qua nó. Dẫu vậy, nếu có “sự quan tâm, chu đáo nâng đỡ
những tài năng, đất nước mới khả dĩ có thêm những tài năng thực sự góp phần xây
dựng nền văn hoá và văn nghệ nước nhà”.
Xin được kết thúc bài viết này bằng niềm mong ước của Trầm Thiên Thu và cũng
là ước ao của những người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung và văn
chương nói riêng: “Mong sao những người hữu trách có quy định rạch ròi và
nghiêm túc về quyền lợi tương xứng với công sức của tác giả đối với mỗi loại hình
nghệ thuật, vì lao động trí óc hoặc lao động nghệ thuật cũng là một loại hình
lao động bình thường. Dẫu biết rằng “đã làm nghệ thuật thì đừng tham vọng gì khác”,
nhưng để “sống và làm việc” thì không thể không chi phí sinh hoạt thường nhật.
Thiết tưởng, đó không là “tham vọng” mà là “nguyện vọng” cần thiết và chính đáng
vì lợi ích chung chứ không riêng cá nhân nào”.
Phải đau đớn mà nhận xét rằng đây là tiếng kêu ai oán của "nghề viết" trong một nước độc tài,cái gì cũng kiểm soát.
Trả lờiXóaNhà văn nhà báo trong các nước Dân chủ đâu có thê thãm vậy.