Chú thích ảnh trên: Đã 48 ngày qu đi, nhưng nhân dân ở mọi miền đất nước vẫn nối nhau vào viếng Đại tướng.
VỊ TƯỚNG CỦA
HUYỀN THOẠI
Trong 2 cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đã sản sinh ra không ít vị tướng tài được Đảng
ta nhà nhân dân ta ghi nhận. Trong số đó không thể không kể đến vị đại tướng đầu
tiên của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam - Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Không phải chỉ có người Việt Nam ở thế hệ Hồ Chí Minh mà cả thế giới từ những năm
40 của thế kỉ XX đến nay đều đã biết những điều rất cơ bản về thân thế và sự
nghiệp của Võ Nguyên Giáp – một trong số ít các vị tướng tài của nhân loại ở thế
kỷ XX. Ông là tổng tư lệnh đầu tiên và qua 2 cuộc kháng chiến thắng Pháp và đuổi
Mỹ của dân tộc Việt Nam. Ông là vị tướng đầu tiên được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch
Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại tướng từ khi ông mới 38 tuổi. Ông là vị chỉ huy
của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người - tiền thân của Quân
đội nhân dân Việt Nam. Ôâng là Tư lệnh đầu tiên của các tư lệnh thuộc QĐNDVN. Ông
là Tư lệnh duy nhất làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ - đòn quyết định của quân
và dân ta đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp tháng 5.1954. Ông là vị tư
lệnh tối cao thay mặt Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ra lệnh cho các cánh
quân của ta (tháng 4.1975) hợp quân dứt điểm chiến tranh tại nội đô Sài Gòn bằng
bức điện nổi tiếng: “Thần tốc! Thần tốc hơn nữa! Táo bạo! Táo bạo hơn nữa”,
trong chiến dịch tổng tấn công lịch sử mang tên Hồ Chí Minh. Ông là vị tướng và
là chính khách duy nhất trong thể chế Hồ Chí Minh có tới 12 cuốn sách do mình
viết ra mà cuốn đầu tiên rất dày có tên “Những năm tháng không thể nào quên”. Ông
là đại diện cho quân đội của một dân tộc từng “đánh thắng hai đế quốc to” là Pháp
và Mỹ mà bản chất đội quân ấy vô cùng bình dị, đáng yêu: Từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu! Đó là yếu tố quan trọng và tiên quyết để dân tộc ta chiến
thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng là thực dân, đế quốc hay bọn bành trướng, ở
phía Bắc xâm lấn biên giới Tây Nam tổ quốc. Ông là người được vinh danh là người
Anh Cả của các lực lượng vũ trang Việt Nam.
Trong đội quân hàng triệu người của
vị Tư lệnh ấy, tôi là người phục vụ trong quân ngũ chưa đầy 4 năm, trong đó ở
chiến trường Quảng Trị chưa được 4 tháng (tính từ sau Tết Nguyên Đán 1972). Tôi
bị thương ở một khu rừng cây nhỏ, bên phía Triệu Phong. Khi theo tuyến tải thương
ra đến Quân y viện tại Lệ Thủy (lúc ấy tôi
chưa biết đấy là quê hương Đại tướng Võ Nguyên Giáp), tôi mới được tin: Quân ta
mở chiến dịch tấn công thành cổ, giải phóng Quảng Trị mùa hè 1972 mà quân ngụy
Sài Gòn gọi là “mùa hè đỏ lửa”, còn khi kết thúc chiến dịch, ta gọi đó là “Thành
cổ 82 ngày đêm”. Về sau, tôi được biết Tư lệnh mặt trận Quảng Trị bấy giờ là tướng
Lê Trọng Tấn, Chính ủy mặt trận là tướng Lê Quang Đạo. Sau này, thống nhất đất
nước, ông Lê Quang Đạo giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Còn tướng Lê Trọng Tấn, tôi
nghe phong thanh rằng ông chết trước khi sắp được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng. Hiện nay, một đường phố ở Thủ đô Hà Nội đã được mang tên ông. Lại nói đầu
hè năm 1972, tại nơi gần đại bản doanh mặt trận Quảng Trị, hai bên các dòng suối,
dây điện thoại hữu tuyến rải dọc từ ngoài Bắc vào ước chừng ôm cả ôm không xuể.
Trong đó, có một đường dây của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nối với Trung tướng
Lê Trọng Tấn. Tôi có nghe mấy anh lính thông tin ở đại bản doanh ra cùng nằm viện
với tôi kể lại: Hữu tuyến a lô, cụ Giáp điện cho cụ Tấn, nhắc cụ Tấn cho các cánh
quân ta xiết chặt địch, không cho nống ra các điểm cao và nhảy dù vào thành cổ.
Lần này ta sẽ quyết tâm giải phóng tỉnh Quảng Trị, không để như thời Mậu Thân –
68 nữa đâu.
Nói là làm, Đại tướng là thế.
Tôi cũng được biết, từ khi là Chủ
nhiệm Hội Báo chí Đông Dương, rồi làm cán bộ Việt Minh, nhà giáo Võ Nguyên Giáp
đã kịp tìm hiểu và làm quen với cô Nguyễn Thị Quang Thái. Tình yêu nảy nở, hai
người động viên, dìu dắt nhau cùng hoạt động trong Tổng hội Việt Minh. Ít lâu
sau, bà Quang Thái được tổ chức cử đi Sài Gòn để liên lạc và truyền đạt mệnh lệnh
tới bà Nguyễn Thị Minh Khai - lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ lúc bấy giờ. Tiếc thay,
khi chưa tới được Sài Gòn, bà Quang Thái đã bị thực dân Pháp bắt và đem về giam
giữ tại nhà ngục Hỏa Lò (Hà Nội). Khi biết bà là vợ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(lúc ấy ông đang ở Việt Bắc cùng Bác Hồ và các đồng chí Trung ương chỉ đạo xây
dựng Đảng và đẩy mạnh kháng chiến toàn quốc), thực dân Pháp đã đưa vào biệt
giam và bí mật thủ tiêu bà. Khi ông đang là Tổng tư lệnh, điều động các đại đoàn
(sau này là các sư đoàn 308, 304…) đánh chiếm và giải phóng các đồn binh Pháp
như Phai Khắt, Nà Ngần trên tuyến biên giới Việt - Trung, chặn viện binh Pháp từ
dưới Hà Nội lên hoặc từ Sơn La, Lào Cai sang. Ông gánh cả hai vai: Thù nhà, nợ
nước. Từ đấy, dọc đường kháng chiến, cán bộ, chiến sỹ các đại đoàn từ An toàn
khu ATK cho đến núi rừng biên giới Việt Bắc, ai ai cũng thấy Đại tướng luôn đeo
băng tang vợ trên nắp túi áo ngực phải.
Có lẽ, theo tôi, đấy không chỉ còn
là câu chuyện riêng của vị Đại tướng Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà
còn là câu chuyện chung của cả dân tộc này, của cả đất nước này. Đúng như một câu
đối mà người đồng chí, đồng đội đã tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Văn ngời nghiệp võ bừng đất nước
Võ dậy hùng văn sáng non sông.
Sự hiểu biết và kỉ niệm của tôi nhớ
về Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đơn giản có vậy thôi, nhưng khi được biết quá
trình trở thành Đại tướng, ông chưa hề có được một buổi theo học một lớp quân sự
nào, cứ thế mà theo Đảng, theo Bác Hồ, vì nhân dân mà hy sinh, chiến đấu. Vậy đấy,
ông thực sự là vị tướng huyền thoại đầy bản lĩnh, giàu nhân cách mà tôi và các
thế hệ sau tôi phải học tập, noi gương, phấn đấu suốt đời, không đơn giản chỉ vì
ông vốn là thầy giáo dạy lịch sử.
HỮU CHỈNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét