Tác giả NGUYỄN THỊ BÍCH THIÊM
CỦ SẮN QUÊ
TÔI
Ký của NGUIYỄN THỊ BÍCH THIÊM
Tôi sinh tại
vùng quê trung du nghèo của Bắc Bộ, nơi có những con đường đất đỏ mịn màng lượn
quanh những đồi cọ hiền hoà. Người dân quê tôi hiền lành thuần
phác, sống với nhau trọn nghĩa vẹn tình.
Như đa phần
các làng trung du khác, quê tôi diện tích trồng lúa nước chỉ chiếm khoảng 60%,
còn lại toàn là đồi – thứ đất đỏ thích hợp với cây sắn. Có thể nói, lũ chúng tôi
lớn lên là nhờ củ sắn của quê hương…
Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã biết phân biệt các giống sắn: giống thân cao, màu
xanh, cuống lá màu vàng, củ không to lắm, vỏ
màu trắng, khi luộc chín có màu vàng, ăn dẻo chứ không bở là sắn nghệ; còn
giống cây cao, cuống lá màu đỏ, củ thường mập, thuôn ở đầu, vỏ có màu đỏ sậm,
khi luộc chín có màu trắng, bở tơi là sắn chuối; thứ gần giống như sắn chuối,
nhưng vỏ củ có màu trắng, là sắn nếp; rồi một giống cây thấp, lá xẻ nhiều thùy,
thân cây nhiều mắt hơn, rất sai củ, nhưng củ không nhiều bột bằng mấy loại sắn
kia và lại rất đắng, rất độc nếu chưa ngâm hay chế biến, loại này gọi là sắn dù…
Củ sắn ngày ấy
là lương thực chính của dân quê tôi. Sắn đào về (quê tôi gọi là “dỡ”) bóc bỏ vỏ,
rửa sạch, cắt khúc ngắn, có thể chẻ đôi, nếu củ lớn, để khi nồi cơm đã sột sệt
gần cạn là bỏ vào hấp. Cơm cạn, ủ thêm mươi, mười lăm phút nữa là chín tới. Bữa
cơm dọn ra, người ngồi ngoài cùng (gọi là ngồi đầu nồi) thường là mẹ hay cô gái
lớn trong nhà, sẽ ý tứ bới những chén cơm trắng dành cho người già, trẻ nhỏ, người
đang cần nhiều dinh dưỡng… Còn lại, xới đều cho mọi người. Chén cơm ngày ấy, một
khúc sắn cõng ít hạt cơm, ăn cùng đọt sắn muối chua nấu cùng cá cờ, cá mài mại
mẹ bắt được ở mương nước nơi cánh đồng xa. Đơn sơ, đạm bạc nhưng cũng giúp quên
đi cái đói trong những lúc tháng ba ngày tám.
Sắn tươi có
thể bào mỏng, đồ như đồ xôi cùng với đậu đen hoặc loáng thoáng vài hạt gạo nếp,
chấm với muối lạc giã nhỏ cũng có một mùi vị riêng. Hoặc sắn luộc chín, rồi giã
trong cối đá, nặn tròn và quệt ít mỡ lợn ở ngoài, thế là thành bánh dầy sắn, ấm
bụng lúc sáng sớm hay nửa chừng buổi làm.
Ngoài ra, sắn
cũng có thể làm bột lọc, củ sắn mài (hay giã) nhỏ, ngâm, lọc chắt nhiều lần cho thật trắng và hết nồng,
sau đó đem ra phơi, khi bột khô cất trong chum sành hay lọ để dùng dần. Mấy đứa
trẻ trai nghịch ngợm nhón lấy một cục gói
trong lá chuối, dúi vào trong bếp tro nóng. Sau ít phút sẽ có một gói bột trong
trong, dai dai, từa tựa như bánh bột lọc của miền Trung vậy… và với cái dạ dày đang
đói thì cũng là món ăn hấp dẫn, nhất là khi chấm với nước mắm ớt cay chua.
Nhưng có lẽ ngon nhất là ăn sắn nướng.
Tụi trẻ, vốn tinh nghịch, luôn “phát kiến” ra những kiểu nướng khác nhau. Thông
dụng nhất là khi chăn trâu trên núi, cả tụi đuổi trâu lên núi cho ăn cỏ, rồi xúm
vào nhổ (hay moi) trộm sắn ở nương nhà ai đó. Tụi con gái đi vơ củi, lá cây. Lửa
nhóm lên cháy bùng bùng. Rồi vùi củ sắn vào đống tro đó. Cả lũ chạy đi tìm quả
rừng ăn, ít phút sau quay lại, bới ra. Gạt bớt lớp vỏ cháy đen bên ngoài, củ sắn
đã chín, vỏ nứt vài đường, lộ phần tinh bột trắng tinh, bở tơi, thơm lừng. Cắn
một miếng sắn bùi béo, nóng bỏng môi, quệt mũi cười mà không để ý rằng đã quệt
nhọ lên mặt. Nếu ở nhà, lịch sự và đỡ sợ nhọ mặt hơn là cách bọc khúc sắn bằng
nhiều lớp giấy, vùi vào cạnh bếp tro lúc nấu cơm. Khi nào áng chừng lớp giấy đó
cháy gần hết thì lấy ra. Sau lớp giấy đó là màu vàng ươm của sắn, ăn vào bở tơi,
nghẹn tắc ở cổ, phải chiêu ngay vài ngụm nước mới khỏi.
Sắn thường
thu hoạch vào khoảng tháng 10, tháng 11 âm lịch, nhưng đôi khi mới tháng 8, người
dân đói kém đã phải nhổ sắn non lên để ăn. Sắn non thường ít tinh bột hơn và năng
suất thấp do chưa phát triển hết. Khi đã đủ tháng, nhổ sắn về, người ta thường
thái lát phơi khô để làm lương thực dự trữ cho người và vật nuôi; khi nào muốn
sử dụng thì phải nghiền nhỏ và chế biến tiếp thành những món ăn. Món bánh sắn là
món hay gặp hơn cả. Để đổi món cho đỡ chán, người mẹ đã khéo léo nhào bột cùng
với chuối ngốp chín (loại chuối quả to, gần giống chuối mốc ở miền Trung) nặn
quanh một chiếc đũa, khi rút ra sẽ thành chiếc bánh rỗng ở giữa, gọi là bánh tu
hú. Cũng có khi bố hay anh trai chặt được một tổ kiến ngạt (loại kiến khá to, mình
đen, thường làm tổ bằng cỡ trái bưởi to hay chiếc mũ bảo hiểm trên ngọn cây nhãn)
giũ ra những ấu trùng kiến trắng ngần. Ấu trùng đó xào qua rồi cho vào làm nhân
bánh. Khi đồ xong, lấy bánh ra, ăn có vị bùi, béo ngậy và ngọt của ấu trùng kiến,
ăn một lần rồi nhớ mãi không quên.
Sắn, dù ăn khô hay tươi đều dễ gây cảm giác nóng cổ, và nếu không cẩn thận
sẽ bị ngộ độc (mà người già thường nói nôm na là “say sắn”). Khi đó, người ta
cho bệnh nhân ăn mật mía hoặc uống nước đường thì sẽ khỏi. Trẻ con vùng sắn đều
được người lớn nhắc để biết rằng những cây sắn nào bón bằng phân gà hay mọc gần
rễ cây xoan sẽ có củ đắng và ăn sẽ say, nên nhà nào có điều kiện, mẹ cũng để sẵn
một chén nhỏ mật mía để các con chấm khi ăn.
Cây sắn quê
tôi âm thầm chắt chiu chất mùn từ những triền đồi đá sỏi để cho đời
những củ sắn làm no lòng người những lúc đói bụng, gian nan. Và người quê tôi cũng
đáp lại sắn bằng tình thương mến, quý trọng; người với người đối
đãi với nhau bằng sự mộc mạc chân chất như hạt lúa củ sắn quê mình. Một nhà có
việc dù vui hay buồn đều được mọi người xung quanh đến an ủi sẻ chia. Ngày đó
nhà cửa còn thưa thớt, một quả gò có khi chỉ có vài nhà ở, vậy nên tình làng
nghĩa xóm càng chan hoà thân thiết. Tôi nhớ cứ Tết đến là mấy nhà
chung nhau (mà quê tôi gọi là “đụng”) mổ một con lợn, lúc cánh đàn ông bận mổ,
thì cánh đàn bà chỉ phụ đun nước luộc hay nhặt rau thơm, giã lạc… để lát nữa các
ông đánh tiết canh, làm dồi. Con lợn phanh ra, chia theo mức độ mỗi nhà định
mua. Một đùi (là một phần tư) hay nửa đùi (một phần tám) của con lợn. Lúc bà vợ
te tái bê thịt về nhà chuẩn bị sơ chế cho ngày Tết thì các ông khề khà bên mâm
rượu với tiết canh, lòng lợn. Còn bọn trẻ đang nghếch mắt lên dõi theo quả bóng
bay thổi bằng bong bóng lợn (bàng quang) đã được chà xát bằng tro bếp đến khi móng
tang và thổi to như quả bóng bay bây giờ. Tụi nó mải nhìn, ngay cả thằng cu Tèo
nhà ông Kí, bị mẹ bắt ăn cái “ấy” lợn nướng cho khỏi nghiến răng cũng vừa ăn vừa
nghếch mặt lên, chả biết mình vừa ăn gì nữa.
Trung du quê
tôi giờ đã đổi khác nhiều. Nhà máy, công trình công cộng… mọc lên san sát. Nhà
nọ cách nhà kia không phải hàng rào cúc tần vấn vít tơ hồng, mà là bờ tường xây
kiên cố. Nhìn đó mà lòng thoáng vui buồn đan xen. Con đường đất đỏ mịn màng năm
xưa nhon nhón bước chân trần đón anh một chiều nắng muộn giờ đã bê tông hoá khiến
tôi tần ngần thẩn thơ khi dạo qua trước những căn nhà kề sát nhau, tưởng như đang
lạc đến chốn thành đô nào và lòng rưng rức nhớ anh. Cây sắn cùng các loại “sản
phẩm” của nó giờ cũng ít đi. Nó hoàn toàn không xuất hiện trong nồi cơm trong các
gia đình ở quê tôi nữa. Người ta chỉ còn thấy thỉnh thoảng một mẹ già ngồi bán
rổ sắn luộc và rất ít người mua. Hàng quà bánh nhiều nên mẹ ngồi đó mà chả bán được là bao. Người
phụ nữ lấy chồng xa quê mới về, vừa nếm một miếng sắn mới mua, chị nói: “Bủ ơi!
Sắn quê mình ngon quá!” Mẹ cười móm mém mà rằng: “Chị vẫn nói giọng quê nhỉ? Có
thấy ngon thật không đới?” Chị cười mà nước mắt rưng rưng. Bà cụ tóc bạc phơ, môi
cắn chỉ quết trầu và nét mặt phúc hậu với dáng người nhỏ bé khiến chị như thấy
mẹ mình năm xưa vậy.
Củ sắn còn có
ở nhiều nơi. Một sáng trong cái nắng vàng sóng sánh của cao nguyên này, tôi chợt
thấy một bà mẹ và em bé ngồi bán mấy củ sắn ở góc chợ nhỏ. Tự nhiên buồn lòng với
ý nghĩ không biết nồi cơm nhà mẹ có còn phải độn sắn hay không. Và cũng đọc đâu
đó những phiên chợ vùng cao ngưòi ta mời nhau bát rượu sắn. Cây sắn gắn bó với
nhà nông. Cây sắn chân chất mộc mạc, hồn nhiên giúp nhà nông “đỡ khi đói lòng”
ngày nay vẫn đang được triển khai, mở rộng diện tích trồng để cung cấp nguyên
liệu cho các nhà máy chế biến thức ăn và một số ngành công nghiệp khác; cây sắn
giờ đã dần dần nhường chỗ cho lúa. Nhưng nó vẫn còn cần cho cuộc sống của người
nông dân và mỗi chúng ta.
Củ sắn – củ
khoai mì – quê tôi. Đó cũng chính là hình bóng quê nhà với những kỉ niệm về con
người, cảnh sắc quê hương… Nó đã lưu giữ và giúp làm giàu thêm những tình cảm tốt
đẹp cho tâm hồn của mỗi con người, giúp ta thêm trân trọng những ngày ấm no, hạnh
phúc hôm nay mà không quên những năm tháng gian khó của một thời chưa xa.