Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

SỐ: 256 - tác giả PHẠM TUẤN VŨ




GIÁ TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO
TỪ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT ÔNG GIÁO
TRONG TRUYỆN NGẮN LÃO HẠC


Nhắc đến truyện ngắn Lão Hạc, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945, người ta nghĩ ngay đến nhân vật cùng tên, một điển hình của người nông dân nước ta trước Cách mạng tháng Tám mà quên mất một hình tượng cũng hết sức thành công khác trong truyện: Nhân vật “tôi”- ông giáo. Có thể nói, dù không phải là nhân vật chính, xuất hiện với vai trò là người kể chuyện, hiện lên chỉ với vài nét ngắn gọn qua lời kể của chính mình nhưng nhân vật ông giáo “tôi” là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao, mang nhiều giá trị nghệ thuật, trong đó có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

GIÁ TRỊ HIỆN THỰC
Đúng như nhận định của Trần Đăng Suyền: “Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945” (trong bài viết Nam Cao -nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn). Ông đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán khá muộn, khi trên văn đàn đã có những cây bút đại thụ với nhiều đỉnh cao không dễ gì vượt qua như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… Thế nhưng bằng sự ý thức sâu sắc về quan điểm nghệ thuật của mình, Nam Cao đã “biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Với cách đi của riêng mình, Nam Cao đã sáng tạo nên những điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi hiện thực Việt Nam. Ngày nay, những Chí Phèo, Thị Nở, dì Hảo, lão Hạc… không chỉ còn là nhân vật trong trang sách nữa mà đã bước ra cuộc đời, in đậm dấu ấn trong đời sống văn học dân tộc.
Trong truyện ngắn Lão Hạc, bên cạnh nhân vật chính là một điển hình xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước 1945, nhân vật ông giáo tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng lại mang nhiều giá trị hiện thực rõ nét. Đây là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nước ta trước Cách mạng, cụ thể là những người dạy học mà tác giả gọi là những “giáo khổ trường tư”. Không được khắc họa đậm nét như anh giáo Thứ trong tiểu thuyết Sống mòn, nhưng qua một ông giáo “tôi” trong truyện ngắn Lão Hạc, ta bắt gặp nhiều ông giáo khác ở nước ta trước năm 1945. Đó là những trí thức nghèo khổ, sống lay lắt bằng đồng lương ít ỏi ở các trường tư. Cuộc sống họ cũng chẳng hơn gì cuộc sống của người nông dân, cũng bấp bênh, túng quẫn và bế tắc. Trong truyện, gia đình ông giáo thường xuyên rơi vào cảnh “cùng đường đất sinh nhai”, con cái nheo nhóc, bệnh tật liên miên, vợ “khổ quá rồi” đến nỗi “cái bản tính tốt” của thị “bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Cũng như văn sĩ Hộ trong Đời thừa, văn sĩ Điền trong Giăng sáng, ông giáo “tôi” trong Lão Hạc cũng phải “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” (Trần Tế Xương). Đây chính là cuộc sống của trí thức tiểu tư sản nói chung, người làm nghề dạy học nói riêng ở nước ta trước năm 1945 mà nhân vật ông giáo “tôi” là một người tiêu biểu.
Trong hoàn cảnh đời sống chật vật, túng thiếu, quẫn quanh ấy, các nhân vật trí thức của Nam Cao thường rơi vào bi kịch giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực khốn cùng trói buộc, giữa khát vọng lớn lao với chuyện áo cơm ghì sát đất. Ông giáo trong Lão Hạc là một tiêu biểu cho bi kịch này của những “giáo khổ trường tư” nước ta trước Cách mạng. Ông giáo “tôi” cũng từng có “một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng”, một thời mà “mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét”. Nhưng “một trận ốm thập tử nhất sinh đã đem y về, trả cho đất chôn nhau cắt rốn” (Sống mòn), và rồi sau nhiều lần “cùng đất sinh nhai”, con cái ốm đau nheo nhóc, vợ “khổ quá rồi”, những ước mơ, hoài bão của thời trai trẻ ấy chỉ còn trong “cái kỉ niệm của một thời”, đã ngủ yên trong kí ức và sau này chưa một lần ông giáo nhắc lại. Có thể nói, dù không được tác giả khắc họa đậm nét như bi kịch “một kẻ vô ích, một người thừa” giằng xé trong nội tâm của các Điền, Hộ, Thứ,… nhưng qua những gì ông giáo nghĩ về “những quyển sách rất nâng niu”, về “một thời chăm chỉ, hăng hái và tin tưởng”, về cuộc sống bấp bênh, nghèo túng hiện tại, ta hiểu ở nhân vật này cũng có những nỗi khổ khó nói ra. Trong Sống mòn, Nam Cao khẳng định : “Đau đớn thay những kiếp sống muốn khao khát lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất”. Hay như trong Đời thừa, ông viết : “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”. Đó chính là nỗi đau của những trí thức tiểu tư sản làm nghề dạy học ở nước ta trước 1945 mà anh giáo Thứ, ông giáo “tôi” là những điển hình.

GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO
Không chỉ là “nhà văn hiện thực xuất sắc”, Nam Cao còn là “nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn”. Và “cái góc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa nhân đạo” (Trần Đăng Suyền, tài liệu đã dẫn), bởi hơn ai hết, ông ý thức được rất rõ giá trị chân chính của “một tác phẩm thật giá trị” là giá trị nhân đạo của nó. Trong Đời thừa, nhà văn viết: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần hơn”. Quả thực, Nam Cao đã làm được những gì ông quan niệm. Giữa lằn ranh mong manh của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, nhà văn đã không bị chao đảo, nghiêng lệch về chí tuyến bên kia bởi ông đứng vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa nhân đạo. Nam Cao là “nhà văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân - phong kiến”. Viết về từng người trong họ, ông “đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau đời và thương đời da diết”, bởi “Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đoạ” (Trần Đăng Suyền, tlđd). Tác phẩm Nam Cao “càng thử thách càng ngời sáng”, có địa vị quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ trước hết bởi ở giá trị nhân đạo mà chúng mang trong mình.
Trong Lão Hạc, ông giáo “tôi” tuy là nhân vật phụ nhưng lại được tác giả dụng công xây dựng, và do đó mang nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị ấy trước hết được biểu hiện ở tấm lòng cảm thông, thương xót đối với những con người bất hạnh, khổ đau, cùng cực. Trong truyện, ông giáo là “kẻ bầu bạn, người được trao gửi, nhân chứng gần gũi của lão Hạc” (Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài Bi kịch của lão Hạc) bởi ông giáo là người bạn an ủi trong lúc tuổi già hiu quạnh duy nhất của lão Hạc; là người biết thấu hiểu, cảm thông với hoàn cảnh trống vắng, buồn tủi khi “Vợ lão chết rồi. Con trai lão đi bằn bặt” bằng cách thường xuyên thăm hỏi, chuyện trò, chia sẻ với lão bạn già khốn khổ của mình những niềm vui đơn sơ của người nghèo như củ khoai luộc, điếu thuốc lào, ấm chè đặc. Thậm chí cả khi lão Hạc “dở chứng” “từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch”, ông giáo không hề giận mà chỉ “càng buồn”, vì ông hiểu rằng “Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng”. Rõ ràng, ông giáo đã có một tấm lòng thương người, một trái tim nhân hậu, dù những người xung quanh ông có ở trong hoàn cảnh khốn cùng, quẫn bách. Đây chính là giá trị nhân đạo quan trọng từ hình tượng nhân vật này.
Hình tượng nhân vật ông giáo xưng “tôi” trong Lão Hạc còn mang một giá trị nhân đạo khác, thể hiện ở tác giả một nhân sinh quan tốt đẹp, một quan niệm hết sức tiến bộ về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Đó là cái nhìn thấy điểm sáng trong cả góc khuất tâm hồn con người, nhìn nhận con người bằng những mặt tích cực, bằng thái độ bao dung, “gạn đục khơi trong” để thấy những điều đáng trân trọng ở mỗi người, dù họ có thế nào đi nữa. Nam Cao viết: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương” (Lão Hạc). Điều này xuyên suốt trong các sáng tác của ông mà tiêu biểu nhất là cái nhìn con người trong truyện ngắn Chí Phèo. Trong Lão Hạc, ông giáo đã có được cái nhìn nhân văn ấy khi nghĩ về lão bạn già và người vợ của mình. Với lão Hạc, khi biết chuyện lão xin bả chó từ Binh Tư, lúc đầu ông giáo ngộ nhận “Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết”. Nhưng rồi khi chững kiến cái chết dữ dội mà nguyên nhân “chỉ có tôi với Binh Tư hiểu”, ông giáo mới vỡ lẽ ra nhiều điều. Từ chỗ hiểu nhầm, ông giáo càng hiểu hơn, kính trọng hơn ở lão bạn nghèo khổ khốn cùng của mình một nhân cách cao đẹp.
Nếu như cái nhìn nhân đạo ấy của ông giáo đối với lão Hạc phải trải qua sự ngộ nhận, hiểu nhầm mới có được, thì với vợ mình, ngay từ đầu ông giáo đã có cái nhìn này. Trong truyện, khi “tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi”. Vợ ông giáo đã nói về lão Hạc bằng những lời hằn học, đáng kiếp. Thế nhưng không vì thế mà ông giáo giận vợ, trái lại ông chỉ thấy buồn. Bởi ông hiểu rằng “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi… Cái bản tính tốt của người ta thường bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Rõ ràng, ông giáo nhìn thấy được cái nguyên nhân sâu xa của những ích kỉ, nhỏ nhen, hằn học của vợ mình. Nhưng trên hết, nhân vật này biết nhìn vào nỗi đau khổ của vợ mà cảm thông, bao dung đồng thời có một niềm tin sâu sắc, bền bỉ vào bản tính lương thiện, tốt lành của con người, dù nó có bị những lo toan, vất vả, khổ đau che khuất mất. Đây là giá trị nhân đạo cao nhất từ hình tượng nhân vật ông giáo mà Nam Cao đã thành công khi xây dựng.
Có thể nói, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Xuyên suốt các sáng tác, làm nên giá trị lâu bền cho các tác phẩm của ông là các giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong truyện ngắn Lão Hạc, nhân vật ông giáo tuy chỉ đóng vai trò phụ nhưng lại là một hình tượng nghệ thuật thành công của Nam Cao, bên cạnh điển hình xuất sắc là lão Hạc. Ở nhân vật ông giáo, giá trị hiện thực và nhân đạo được biểu hiện khá rõ nét. Đây là nhân vật được tác giả dụng công xây dựng, mang nhiều yếu tố tự truyện nhưng đã vượt ra ngoài khuôn khổ của một “giáo khổ trường tư” ở nước ta trước Cách mạng, trở thành một hình tượng đẹp về người giáo viên trong văn học, sống mãi trong đời sống văn học nước nhà. 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét