Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1.5.1862 tại Paris, mất
ngày 8.4.1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot-et-Garonne. Năm 1909, ông được
mời vào Hàn lâm viện Pháp.
NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ CON MÈO
“Vâng”, ông
bạn già Tribourdeaux của chúng tôi, một con người văn hóa và là một triết gia, đó
là sự kết hợp hiếm có ở những bác sĩ giải phẫu trong quân đội, nói: “vâng, điều
siêu nhiên thì có ở khắp nơi, ở chung quanh chúng ta, vây quanh ta và ngấm vào
ta. Nếu khoa học tìm kiếm nó, nó biến mất. Khả năng hiểu biết của chúng ta cũng
giống như trường hợp tổ tiên chúng ta khai phá vài mẫu rừng, bất kỳ khi nào họ
khai phá hết mức họ nghe những tiếng gừ gừ và thấy những đôi mắt lấp loáng ở mọi
nơi chung quanh họ. Chính tôi đã có cảm giác đạt tới những giới hạn của điều không
biết được nhiều lần trong đời, và vào một dịp đặc biệt”.
Một nàng trẻ tuổi có mặt ở đó ngắt lời ông:
“Thưa bác sĩ, ông đang muốn kể cho chúng tôi một
câu chuyện. Xin bắt đầu đi”.
Viên bác sĩ cúi thấp đầu.
“Không, xin thưa thật tôi không phải là không
lo lắng. Tôi càng ít kể câu chuyện này thì càng tốt. Vì nó làm người nghe bấn
loạn, và cũng làm tôi bấn loạn. Tuy nhiên, nếu cô thích, thì chuyện như thế này:
“Năm 1863 tôi là một y sĩ trẻ làm việc ở
Orlean. Thành phố thượng lưu ấy đầy những ngôi nhà cổ kiểu quý tộc, khó mà tìm được
những căn hộ dành cho người độc thân, và, vì tôi thích có nhiều không khí và không
gian thoáng đãng, tôi chọn chỗ ở của tôi ở tầng một của một tòa nhà lớn ở ngay
rìa thành phố, gần Saint-Euverte. Đầu tiên nó được xây dựng để vừa làm một nơi
chứa hàng vừa làm chỗ ở cho một nhà sản xuất thảm. Trong giai đoạn đó thì nhà sản
xuất này thất bại, và tòa nhà lớn mà ông ta đã xây dựng, không được sửa chữa vì
thiếu người thuê, đã được bán với giá rất rẻ với toàn bộ trang thiết bị của nó.
Người mua hy vọng kiếm được lợi nhuận trong tương lai khi mua nó, vì thành phố đang
phát triển ra hướng đó, và thực tế là tôi tin rằng hiện giờ tòa nhà đã được nằm
trong quy hoạch của thành phố. Tuy nhiên, khi tôi thuê một chỗ ở đó, tòa nhà còn
đơn độc ở ven một miền quê thoáng đãng, cuối một con đường ngoằn ngoèo có vài
ngôi nhà rải rác vào ban đêm tạo ra ấn tượng đó là một cái hàm đã rụng gần hết
răng.
“Tôi thuê một nửa tầng một, là một phần tòa nhà
gồm bốn phòng. Tôi lấy hai phòng mặt tiền để làm phòng ngủ và văn phòng, phòng
thứ ba tôi để mấy cái tủ, kệ đựng quần áo, phòng cuối cùng thì bỏ trống. Chỗ này
thành một nơi cư trú rất thoải mái đối với tôi, và tôi có một bao lơn rộng chạy
suốt mặt tiền tòa nhà làm chỗ dạo bước, hay nói đúng hơn là một nửa bao lơn đó,
vì tòa nhà được chia làm hai phần (xin lưu ý cẩn thận chỗ này) bằng một hàng rào
song sắt, nhưng mà người ta có thể dễ dàng leo qua.
“Tôi sống ở đó chừng hai tháng thì vào một đêm
tháng bảy trong khi trở về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có ánh sáng nơi những cửa sổ
của phần nhà bên kia, nơi mà tôi cứ nghĩ là không có người ở. Tác động của ánh
sáng này là lạ lùng. Nó chiếu sáng với một ánh xanh nhạt, tuy vậy lại làm sáng
rõ ràng nhiều phần của bao lơn, con đường bên dưới, và một ít diện tích kế cận.
“Tôi thầm nghĩ: “Aha! Mình có hàng xóm”.
“Thực sự ý nghĩ này không phải là hoàn toàn được
tán thành, vì tôi đã từng khoái chí về sự cư ngụ độc nhất của tôi. Trước khi về
phòng ngủ tôi lặng lẽ đi ra ngoài bao lơn, nhưng nguồn sáng ở ngoài đã tắt mất
rồi. Vậy là tôi quay về phòng, ngồi đọc sách chừng một hay hai giờ đồng hồ. Thỉnh
thoảng tôi dường như nghe được tiếng chân bước nhẹ, dù tôi đang ngồi trong bốn
bức tường, nhưng sau khi đọc sách xong tôi đi ngủ, và chìm vào giấc ngủ khá
nhanh.
“Khoảng nửa đêm tôi chợt tỉnh giấc vì cảm giác
lạ lùng là có gì đó đang đứng bên cạnh tôi. Tôi ngồi dậy trong giường, thắp một
ngọn nến, và đây là những gì tôi thấy. Ở giữa phòng là một con mèo rất to đang
nhìn tôi bằng đôi mắt sáng ánh lân tinh, lưng nó hơi cong lên. Đó là một con mèo
giống Angora lớn, lông dài và đuôi phủ lông tơ,
có một màu khác thường – chính xác là giống như màu lụa vàng mà người ta thấy
trong những cái kén – vì vậy khi ánh sáng tỏa trên lớp lông của nó, con vật dường
như làm bằng vàng.
“Nó chầm chậm bước về phía tôi bằng bốn chân mềm
như nhung, dịu dàng cọ tấm thân dợn sóng của nó vào chân tôi. Tôi vói tay xoa
xoa nó, nó chấp nhận sự ve vuốt của tôi, gừ gừ, rồi cuối cùng nhảy lên đầu gối
của tôi. Lúc ấy tôi nhận ra nó là một con mèo cái, khá non tuổi, và dường như nó
sẵn lòng để tôi vuốt ve nó bao lâu tùy ý. Nhưng sau rốt tôi đặt nó xuống nền phòng,
dỗ nó ra khỏi phòng, nhưng nó phóng đi trốn giữa đồ đạc trong phòng, tuy nhiên
sau khi tôi thổi tắt nến, nó lại nhảy lên giường tôi. Ngái ngủ, tôi chẳng buồn đụng
đến nó, mà chập chờn ngủ ngay, và sáng hôm sau khi tôi thức dậy trong ánh sáng
ngày rạng rỡ tôi chẳng hề thấy chút dấu vết nào của con mèo.
“Thật sự bộ óc con người là một công cụ tinh
vi, và dễ bị rối loạn. Trước khi tôi kể tiếp, quý vị hãy gom lại các dữ kiện mà
tôi đã đề cập: một nguồn sáng được thấy và tắt ngấm ngay trong một phần nhà được
cho là không có người ở; và một con mèo có màu lông lạ lùng, xuất hiện và biến
mất theo một cách có phần bí ẩn. Cho đến đây thì không có gì lạ lùng lắm về
chuyện đó phải không? Hay lắm. Bây giờ hãy tưởng tượng, rằng những sự kiện không
quan trọng đó được lặp đi lặp lại ngày này sang ngày khác cũng y như vậy suốt một
tuần lễ, và rồi, xin hãy tin tôi, chúng trở nên quan trọng đủ để gây ấn tượng với
bộ óc của một người đàn ông đang sống một mình, và tạo ra nơi anh ta nỗi băn
khoăn lo lắng như tôi nói lúc đầu câu chuyện, cũng như luôn luôn tạo ra sự lo âu
khi người ta tiếp cận với điều chưa từng được biết. Bộ óc con người được cấu tạo
để luôn luôn ứng dụng một cách vô thức cái nguyên tắc cần và đủ. Với mỗi loạt sự
kiện giống nhau, nó đòi một nguyên nhân, một định luật, và một nỗi lo ngại mơ hồ
chế ngự nó khi nó không thể đoán ra nguyên nhân và lần ra định luật này.
“Tôi không hèn nhát, nhưng tôi đã thường nghiên
cứu về sự hiển lộ nỗi sợ hãi nơi những người khác, từ hình thức sợ hãi non nớt
nhất nơi trẻ con cho đến tình huống bi kịch nhất nơi những người điên. Tôi biết
rằng sự sợ hãi được nuôi dưỡng bởi những điều không minh bạch, nhưng khi người
ta quyết định tìm hiểu nguyên nhân, nỗi sợ hãi này thường biến thành sự tò mò đơn
giản.
“Vì thế tôi quyết định tìm cho ra sự thật. Tôi
hỏi thăm người giao hàng cho tôi và thấy rằng anh ta chẳng biết gì về những người
hàng xóm của tôi. Mỗi buổi sáng có một bà già đến dọn dẹp phần nhà bên đó, người
giao hàng của tôi đã thử hỏi thăm bà ấy, nhưng hoặc là bà ấy điếc hoặc là bà ấy
không muốn cung cấp cho anh ta thông tin gì, nên bà ta không hề hé răng nói một
lời nào. Tuy nhiên, tôi có thể giải thích thỏa đáng điểm đầu tiên mà tôi đã thấy
– đó là, sự biến mất đột ngột của nguồn sáng khi tôi vào nhà. Tôi đã thấy các ô
cửa sổ kế bên cửa sổ nhà tôi chỉ được che màn vải đăng ten dài, và vì hai bao lơn
liền kề, nên người hàng xóm của tôi, dù là nam hay nữ, rõ ràng là muốn ngăn chận
bất kỳ sự tò mò tọc mạch nào về phía tôi, và vì thế đã luôn luôn tắt đèn khi
nghe tiếng tôi về. Để kiểm tra lại giả thiết này, tôi đã làm một thử nghiệm rất
đơn giản mà hoàn toàn thành công. Một hôm tôi cho người đem đến cho tôi một bữa
ăn nguội vào buổi trưa, và buổi chiều tôi không ra khỏi nhà. Khi trời tối, tôi
chọn một chỗ ngồi gần cửa sổ. Rồi tôi thấy bao lơn sáng lên do ánh sáng chiếu
qua các cửa sổ của nhà hàng xóm. Tôi lập tức lặng lẽ lẻn ra bao lơn, và nhẹ nhàng
leo qua hàng rào sắt ngăn cách hai phần tòa nhà. Mặc dù tôi biết là tôi có thể
gặp nguy hiểm, hoặc là té gãy cổ, hoặc là giáp mặt với một người đàn ông, tôi vẫn
không cảm thấy lo ngại. Khi đến chỗ cửa sổ sáng đèn mà không gây ra một tiếng động
nhỏ nào, tôi thấy cửa mở một phần. Màn cửa, đối với tôi là hoàn toàn trong suốt
vì tôi ở phía tối của cửa sổ, lại làm tôi không thể bị nhìn thấy với bất kỳ ai
nhìn về phía cửa sổ từ bên trong gian phòng.
“Tôi thấy một gian phòng lớn được trần thiết khá
lịch sự, dù rõ ràng là nó không được sửa sang, và được chiếu sáng bởi một ngọn đèn
treo trên trần. Ở cuối phòng là một chiếc ghế xô pha thấp trên đó có một người đàn
bà ngồi mà tôi cho là vừa trẻ vừa đẹp. Mái tóc vàng buông lơi của nàng xõa xuống
bờ vai. Nàng đang soi mình bằng chiếc gương cầm tay, tự chiêm ngưỡng mình, cánh
tay đưa lên trên làn môi, và uốn quanh cơ thể mềm mại của nàng với một vẻ duyên
dáng lạ lùng của loài mèo. Mỗi cử động của nàng làm cho mái tóc dài lay động như
sóng dập dờn loang loáng.
“Khi tôi nhìn nàng tôi thừa nhận rằng tôi có cảm
thấy đôi chút khó khăn, đặc biệt là khi bất ngờ đôi mắt của nàng đăm đăm nhìn tôi
– đôi mắt lạ lùng, có màu xanh lân tinh ánh lên như lửa đèn. Tôi chắc chắn là tôi
không bị nhìn thấy, vì ở phía tối của khung cửa sổ có treo màn. Đơn giản là vậy,
nhưng tôi lại cảm thấy là tôi bị nhìn thấy. Cô gái, thực sự đã phát ra một tiếng
kêu, rồi quay đi và vùi mặt vào mấy cái gối của ghế xô pha.
“Tôi băng qua cửa sổ tiến đến ghế xô pha, cúi mình
trên khuôn mặt nàng đang che giấu. Khi tôi làm thế, tôi thực sự cảm thấy rất hối
hận, tôi bắt đầu xin lỗi và trách cứ chính mình, gọi mình bằng đủ loại tên, và
xin tha thứ về sự thiếu suy xét của tôi. Tôi nói rằng tôi đáng bị đuổi đi không
được nhìn nàng, nhưng xin đừng đuổi tôi đi mà không có một lời tha thứ. Trong một
hồi lâu tôi van vỉ như thế mà không thành công, nhưng cuối cùng nàng chầm chậm
quay lại, và tôi thấy khuôn mặt khá trẻ của nàng dường như xao động với một nụ
cười thoảng qua. Khi nàng nhìn tôi nàng thì thầm những lời lúc ấy tôi hoàn toàn
không hiểu được.
“Chính là anh”, nàng kêu lên, “Chính là anh”.
“Trong khi nàng nói và tôi nhìn nàng, tôi không
biết phải trả lời thế nào vì tôi cứ miên man suy nghĩ: tôi đã thấy khuôn mặt này,
cái nhìn này, phong thái này ở đâu? Nhưng rồi tôi cũng nói thành lời, và sau
khi nói thêm vài lời xin lỗi về sự tò mò vô lối của tôi, tôi nhận được sự trả lời
ngắn gọn nhưng không phản kháng, tôi rời nàng rút lui qua lối cửa sổ mà tôi đã
vào để trở về phòng mình. Về đến phòng, tôi ngồi một hồi lâu bên cửa sổ trong bóng
tối, bị mê hoặc bởi khuôn mặt mà tôi đã nhìn thấy, lòng lo lắng khác thường.
“Người phụ nữ này quá đẹp, quá dễ thương, sống
gần tôi, nói với tôi “Chính là anh”, cứ như thể nàng đã quen tôi, nàng nói quá ít,
trả lời mọi câu hỏi của tôi với sự lảng tránh, gợi lên trong tôi cảm giác sợ hãi.
Nàng đã nói với tôi tên nàng – Linda – và chỉ có thế. Tôi cố gắng trong vô vọng
quên đi đôi mắt xanh của nàng, mà trong bóng tối dường như chiếu về tôi, và quên
ánh lấp lánh, như ánh lóe của tia lửa điện, sáng lên nơi mái tóc dài của nàng mỗi
khi nàng mơn man nó trong tay. Cuối cùng tôi đi ngủ, nhưng vừa đặt đầu xuống gối
thì tôi cảm thấy một cơ thể ở dưới chân tôi. Con mèo lại xuất hiện. Tôi cố xua
nó đi, nhưng nó cứ quay lại, cho tới khi tôi mặc kệ sự hiện diện của nó. Và y
như trước, tôi thiếp ngủ với người bạn lạ lùng này ở gần tôi. Nhưng giấc ngủ của
tôi lần này không yên, bị phá vỡ bởi những cơn mơ chập chờn và lạ lùng.
“Quý vị đã bao giờ nghiệm thấy một loại ám ảnh
tinh thần dần dần làm cho não bộ bị chế ngự bởi một ý tưởng lạ lùng độc nhất –
một ý tưởng gần như điên khùng, cái ý tưởng mà lý trí và ý chí của quý vị muốn
xóa đi, nhưng nó lại dần dần tự trộn lẫn với tư tưởng của quý vị, bám chặt vào
trí óc của quý vị, và cứ phát triển mãi? Tôi đau đớn chịu đựng theo cách như vậy
trong những ngày tiếp theo cuộc phiêu lưu lạ lùng của tôi. Không có gì mới xảy
ra, nhưng vào buổi tối, khi ra ngoài bao lơn, tôi thấy Linda đứng bên phần nhà
nàng bên kia hàng rào sắt. Chúng tôi trò chuyện một lúc trong ánh sáng lờ mờ, và
như trước đó, tôi trở về phòng mình để chốc lát sau lại thấy con mèo vàng xuất
hiện, nhảy lên giường tôi, làm một tổ ấm cho mình ở đó, và ở đó cho tới khi trời
sáng. Bây giờ thì tôi biết con mèo đó thuộc về ai, vì Linda đã trả lời ngay tối
hôm đó khi tôi nhắc về nó, “Ồ phải, con mèo của em, có phải nó giống như làm bằng
vàng không?”. Như tôi nói, không có gì mới xảy ra, tuy vậy một nỗi kinh hãi mơ
hồ từng chút từng chút chế ngự tôi và tự phát triển trong trí tôi, mới đầu chỉ
là một chút tưởng tượng ngớ ngẩn, và rồi trở thành một niềm tin ám ảnh thống lĩnh
toàn bộ ý nghĩ của tôi, làm tôi thường xuyên nghĩ mình đã thấy được một chuyện
mà trong đời thực hoàn toàn không thể nào thấy được”.
“Có gì đâu, cũng dễ đoán ra mà”, cô nàng trẻ tuổi
đã lên tiếng ở đầu chuyện nói chen vào.
“Linda và con mèo là một”.
Tribourdeaux mỉm cười.
“Tôi không dám quả quyết như thế”, ông nói,
“ngay cả hồi đó. Nhưng tôi không thể phủ nhận rằng sự tưởng tượng lố bịch này ám
ảnh tôi nhiều giờ khi tôi đang cố chợp mắt giữa cơn mất ngủ vì một não bộ quá
hoạt động gây ra.
Vâng, có những lúc hai sinh thể có mắt xanh này,
cử động uyển chuyển này, tóc và lông vàng, đối với tôi dường như hòa thành một,
là hai sự hiển thị của một thực thể. Như tôi đã nói, tôi thường thấy Linda, nhưng
bất chấp những nỗ lực của tôi để bắt gặp nàng bất ngờ, tôi chưa hề thấy cả hai
cùng lúc. Tôi cố lý giải, tự thuyết phục mình rằng thực sự không có gì không thể
giải thích trong tất cả chuyện này, và tôi tự chế nhạo mình vì sợ cả một người đàn
bà lẫn một con mèo vô hại. Sự thật là sau khi lý luận, tôi thấy rằng tôi không
sợ nhiều lắm về một con vật độc nhất hay một người đàn bà độc nhất, mà đúng hơn
là sợ những gì tồn tại trong tưởng tượng của tôi và làm cho tôi sợ một điều gì đó
vô hình – nỗi sợ về một sự hiển thị của chính tâm hồn tôi, sợ một ý tưởng mơ hồ,
mà, thực sự là điều tệ hại nhất trong mọi nỗi sợ hãi.
“Tôi bắt đầu bị rối loạn thần kinh. Sau nhiều
buổi tối dài tâm sự và rất trái với lệ thường cùng Linda, qua đó dần dần cảm xúc
của tôi nhuốm màu tình yêu, tôi trải qua những ngày dài dằn vặt, như tâm trạng
những người chớm điên phải trải qua. Dần dần một quyết tâm bắt đầu hình thành
trong trí tôi, một nỗi ham muốn càng lúc càng thúc bách đòi hỏi một giải pháp
cho sự nghi ngờ dằn vặt không dứt này. Và tôi càng quan tâm đến Linda, thì càng
cảm thấy hoàn toàn cần thiết hoàn thành quyết tâm này. Tôi quyết định giết con
mèo.
“Một buổi tối trước khi gặp Linda ngoài bao lơn,
tôi lấy từ tủ thuốc của tôi một lọ glycerine và một chai nhỏ axit hydrocyanic cùng
một que thủy tinh mà các nhà hóa học dùng để trộn những chất ăn mòn. Tối đó lần
đầu tiên Linda cho phép tôi ve vuốt nàng. Tôi ôm nàng trong vòng tay và lướt
tay tôi trên mái tóc dài của nàng, mái tóc có tiếng lách tách với nhiều tia lấp
lánh dưới bàn tay ve vuốt của tôi. Ngay khi tôi trở lại phòng mình thì con mèo
vàng, như lệ thường xuất hiện trước mặt tôi. Tôi gọi nó đến với tôi, nó cọ mình
vào tôi với cái lưng uốn cong và cái đuôi vươn dài, gừ gừ thật dễ thương. Tôi cầm
cái que thủy tinh trong tay, chấm đầu que vào glycerine, rồi chìa nó cho con mèo,
con mèo liếm que bằng cái lưỡi dài và đỏ. Tôi làm như vậy ba bốn lần, nhưng sau
đó tôi nhúng que vào a xít. Con mèo chẳng chút do dự dùng lưỡi liếm que. Ngay tức
khắc con mèo trở nên cứng nhắc, và một lúc sau, cơn co giật uốn ván làm nó bật
ba lần lên không, rồi rơi xuống sàn với một tiếng kêu thảm thiết – một tiếng kêu
đích thực của con người. Nó đã chết.
“Với mồ hôi bắt đầu toát ra trên trán và với đôi
bàn tay run run tôi quỳ sụp lên nền nhà bên cạnh xác mèo vẫn còn chưa lạnh. Đôi
mắt đăm đăm một cái nhìn làm tôi điếng người vì kinh hoàng. Cái lưỡi đã hóa đen
le ra giữa hàm răng, bốn chân co rút hiển lộ cơn đau đớn. Tôi lấy hết can đảm với
nỗ lực dữ dội của ý chí, nắm lấy chân con vật và ra khỏi nhà. Vội vã đi xuống
con đường vắng, tôi đi về phía bờ kè dọc sông Loire, và khi đến nơi, tôi ném gánh
nặng của mình xuống sông. Tôi lang thang trong thành phố cho tới khi trời sáng,
đi đâu tôi chẳng biết, và cứ thế cho tới khi bầu trời bắt đầu mờ xanh rồi hồng
lên ánh bình minh tôi mới có đủ can đảm để trở về nhà. Khi tôi đặt tay lên cửa,
tôi rùng mình. Tôi có nỗi sợ, như trong một truyện nổi tiếng của Poe, là thấy
trong nhà vẫn còn sống con vật mà tôi mới làm cho chết. Nhưng không, gian phòng
của tôi trống vắng. Tôi ngã mình mệt lả lên giường, và lần đầu tiên tôi ngủ với
cảm giác hoàn toàn một mình, một giấc ngủ như của một con thú hay của một kẻ ám
sát, cho tới khi đêm đến.
Có người lên tiếng, phá vỡ sự lặng im thin thít
khi chúng tôi đang nghe.
“Tôi có thể đoán ra đoạn kết. Linda biến mất cùng
lúc với con mèo”.
“Cô đoán đúng lắm”, Tribourdeaux trả lời,
“Trong những chi tiết của câu chuyện này có một sự trùng hợp lạ lùng, vì thế cô
có thể đoán khá chính xác mối quan hệ của họ. Phải, Linda biến mất. Người ta thấy
trong căn hộ của cô ấy trang phục, đồ lanh, thậm chí cả đồ ngủ mà cô ấy đã mặc đêm
đó, nhưng không có gì có thể cung cấp một chi tiết sơ lược nhất về lý lịch của
cô ấy. Chủ tòa nhà đã cho người thuê căn hộ, “Cô Linda – ca sĩ thính phòng”, ông
ta không biết gì hơn. Tôi được cảnh sát triệu tập. Vào đêm cô ấy biến mất có người
đã thấy tôi lang thang với vẻ mất trí trong khu vực bờ sông. May thay là viên
thẩm phán quen tôi, lại may thay ông ta là một người có trí thông minh không bình
thường. Tôi kể riêng với ông ấy toàn bộ câu chuyện, y như tôi đang kể với quý vị.
Ông ta hủy bỏ cuộc thẩm vấn, tuy nhiên tôi có thể nói là có rất ít người tránh được
một phiên tòa hình sự với một lối thoát hẹp như của tôi.
Sau một hồi lâu sự im lặng của nhóm người nghe
bùng vỡ. Cuối cùng một quý ông, muốn giải tỏa sự căng thẳng, kêu lên:
“Thôi nào, ông bác sĩ, hãy nói thực đây chỉ là
chuyện tưởng tượng, rằng ông chỉ muốn làm cho quý bà quý cô ở đây mất ngủ”.
Tribourdeaux khó nhọc cúi mình, mặt ông không cười
và hơi tái.
“Ngài có thể nghĩ vậy nếu muốn”, ông nói.
VÕ HOÀNG MINH dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét