KÝ ỨC VƯỜN
XƯA
(Kính viếng
hương hồn cô P, chú B đã hy sinh ở khu Vườn Mận – Cần Thơ)
Truyện ngắn
Gió tết thổi nhè nhẹ, lành lạnh
lan toả khắp khu vườn mận. Chỉ toàn là mận. Ánh trăng rằm tháng mười hai sáng lèm
lẹm vừa đẹp nhưng cũng vừa huyền bí rất lạ lùng. Trong cõi hư vô huyền hoặc sâu
thăm thẳm rộng thênh thênh, Lan nghe như có tiếng ai chuyện trò, cười cợt, tiếng
lào xào đi trên lá mận của những bước chân người. Đôi mắt. Phải rồi. Đôi mắt của
ai đang đăm đăm nhìn về phía cô trong khoảng không gian nửa tối nửa sáng. Ma.
Không. Làm gì có, Lan tự trấn an dù tim mình cứ đánh thình thịch không chịu đập
chậm lại.
- Cô làm nhà báo “bi nhiêu” năm rồi
? Tiếng chú Thái bảo vệ hỏi khẽ.
- Dạ. Tết nầy nữa được sáu năm rồ
- Lan trả lời.
- Cô có sợ ma hôn? Ma nầy “hiền” lắm.
Không sợ thì tui dẫn đi lòng vòng khu nầy cho biết. Sợ thì “ giải tán”. Cô khoái
cái vụ nào?
- Sợ thì cũng có chút chút. Nhưng
có chú rồi con hết lo. Khu di tích Vuờn Mận nầy đẹp ghê. Mà sao người ta không
trồng thứ khác kiếm được nhiều tiền hơn hả chú?
- Cô nói ngộ. Tiền ai hổng ham. Nhưng
bà con ở đây sống với cây mận, khổ cũng nó, sướng cũng nó. Đất đai ông bà để lại,
dặn sao tụi tui làm vậy, dí lại... Nói đến đó giọng chú chùn xuống thật buồn. Đôi
mắt già nua của người lão nông tri điền trầm tư nhìn vào khoảng tối của khu vườn
kèm theo những tiếng thở dài thườn thượt.
- Với lại sao chú? - Lan hỏi dồn dập.
- Ví lại mỗi gốc mận ở đây có biết
bao nhiêu xương máu của bà con, của du kích, bộ đội đàng mình, ai nỡ phá nó đi.
Làm vậy có tội với người chết lắm cô ơi.
Hai con người, một già một trẻ len
lỏi vào khu vườn trong ánh sáng dìu dịu của ánh trăng. Mận mùa nầy tuy không vào
chính vụ nhưng lại khá nhiều trái do người dân biết cho ra trái nghịch mùa. Màu
đỏ thẫm loáng loáng tràn ngập khu vườn. Tiếng côn trùng kêu ra rả phát ra nhiều
âm thanh lạ lẫm thật vui tai. Thỉnh thoảng những con cá trong các mương vườn lại
quẫy mình kêu ùng ục. Gió lạnh từng lúc kéo về len lỏi qua các gốc mận làm chúng
rung lên, nghiêng mình kêu lào xào, răng rắc.
- Khoan đi tiếp, để tui đốt mấy cây
nhang cho anh Bi cái đã. Ông nầy linh thiêng lắm. Sống thì hiền như cục đất, ai
nói gì sẵng cũng cười, ai cằn nhằn cửi nhửi, ổng cười hề hề. Làm “bí thơ” ai cũng
nể. Ca vọng cổ thì nhứt xứ, chả mà đề ba vô vọng cổ một lần cả trăm chữ hổng
nghỉ xả hơi. Ngán nhứt cái chuyện gan lì của ổng. Hô đánh là mần liền. Tụi giặc
lùng sục hoài mà bắt hổng được. Thấy đó rồi biến mất như Tề thiên đại thánh. Rồi...
- Rồi sao chú?
- Từ từ cháo nó mới nhừ chớ. Để
tui nhớ coi. Mà nhớ tới đâu kể tới đó, đầu đuôi lộn xộn, tá lả âm dương, cô muốn
viết sao thì viết, tui hổng có rành cái vụ nầy nghe.
Ký ức hơn bốn mươi năm trước mồn một
kéo về. Đám tang chị hai Phỉ thật đau thương uất nghẹn nhưng cũng rất anh hùng.
Cả xóm vườn mận nầy đều có mặt tiễn đưa. Người đàn bà chơn chất quê mùa ấy một
lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, gánh vác việc nhà cho chồng con đi làm cách mạng.
Có đi mà không về. Những người thân lần lượt hy sinh làm bùng cháy thêm ngọn lửa
căm hờn trong lòng người phụ nữ miền Nam ấy.
Một đêm giông bão, giặc bí mật đổ
quân bố ráp khu căn cứ vườn mận cố tiêu diệt cho được những cán bộ cao cấp của
trung ương, tỉnh uỷ tập kết về đây chỉ đạo mặt trận phía Nam. Đang loay hoay
trong vườn tìm cá đồng để cải thiện bữa ăn cho cán bộ, chị Phỉ phát hiện những
bóng đen Mỹ - Nguỵ đã áp sát căn cứ. Làm sao bây giờ để báo cho cán bộ ta biết để
rút lui an toàn? Không còn kịp nữa rồi? Nhanh như cắt, chị chạy băng băng ra
con đê phía ngoài vườn để thu hút sự chú ý của địch. Những tiếng súng nổ chát
chúa vang trên trong đêm mưa. Chị té xuống vì trúng đạn rồi lại gượng đứng lên
cố chạy. Súng lại nổ hàng loạt vào người phụ nữ nhỏ nhoi ấy tạo nên những tia máu
chảy dài trên bờ đê. Chị hy sinh. Chính những tiếng súng oan nghiệt ấy đã giúp
cho cán bộ ta rút lui an toàn trong niềm tiếc thương, nỗi đớn đau và lòng khâm
phục vô chừng.
Bọn giặc ngăn cản không cho ai
mang xác chị về nhà. Chúng muốn người dân Việt Cộng xứ nầy lấy đó mà làm gương.
Thằng đại uý Mừng – chỉ huy tụi thám báo gằn giọng:
- Mấy người thấy đó mà tởn tới già.
Theo Việt Cộng thì làm mồi cho dơi quạ. Hừ. Nói xong nó cười khoái trá rồi rút
súng ngắn bắn lên trời mấy phát thị uy.
Bà con vườn mận kéo nhau ra miệt Bình
Thuỷ đấu tranh với địch mấy ngày mới đem xác chị về nhà. Chúng đồng ý nhưng cắt
cử lính nằm bố ráp xung quanh nhà chị đề phòng Việt Cộng tìm về. Rất lạ. Tuy thân
thể không còn nguyên vẹn, nhầy nhụa bởi hàng chục viên đạn bắn vào người, nhưng
đôi mắt chị vẫn mở trừng trừng như đang dồn nén nỗi căm hờn vào quân giặc, như
chờ người thân của mình vuốt mặt lần cuối cùng trước lúc đi xa, như muốn gởi gắm
niềm tin cho quê hương, bà con chòm xóm.
Nửa đêm. Mưa gió đầy trời. Lạnh thấu
xương. Một bóng đen ngoi lên từ con rạch sau nhà mình đầy sình đất, đầu đội mớ
lục bình nước chảy ròng ròng nhẹ nhàng buớc vào phía sau cái bếp rồi tiến đến bàn
thờ. Đang ngồi bên chiếc hòm gòn đốt mấy tờ giấy vàng bạc. Thấy bóng đen, chị
ba Mén hồn bay phách lạc, miệng ú ớ:
- Ai...ai...vậy...làm cái gì mà
...tui...
- Chị ba đừng la. Tụi lính gác nó
hay thì chết cả đám. Tui là thằng Bi nè.
- Trời đất. Bộ mầy khùng rồi hả
Bi? Nguy hiểm như vầy mà mày bò dìa làm chi. Anh em trong đó khoẻ hôn? Còn đủ hết
hôn?
- Còn đủ. Tui thương chị hai quá nên
bò dìa đốt cho chỉ mấy cây nhang. Hổng có chỉ, tụi tui toi mạng gà hết ráo rồi.
Nói đến đó anh bật khóc tấm tức.
- Trời. Tao lạy mầy Bi ơi. Tụi nó
nghe được là nguy. Thôi nhang nè. Đốt lẹ rồi đi liền đi. Ờ, để tao gởi vô trỏng
mấy đòn bánh tét nhưn đậu với mấy bánh thuốc giồng.
Mấy cây nhang đốt lên vội vã. Đôi
mắt chị hai Phỉ trong khung ảnh cũ mèm vẫn mở trừng trừng, đau đáu nhìn anh. Gạt
nước mắt, anh biến đi trong đêm mưa tầm tã đầy sấm chớp sáng loà kèm những tiếng
nổ đì đùng, trong tiếng lá mận rơi ào ào bởi gió, bởi mưa.
Chiến tranh khốc liệt hơn. Mỹ -
Nguỵ càn quét khu căn cứ vuờn mận nhiều hơn nhưng đâu vẫn vào đó. Mận vẫn xanh
tươi muôn thuở, trái vẫn trĩu cành. Sau khi bảy đồn bót bị Việt Cộng tiêu diệt
chỉ một đêm. Địch tập trung mọi lực lượng tấn công vườn mận để tiêu diệt bằng được
bộ chỉ huy của Việt Cộng đang trú ẩn tại đây.
Trong căn hầm đất đầy bao cát. Tiếng
anh Bi – bí thơ chi bộ sang sảng:
- Lần nầy gay go lắm đây. Địch nhiều,
ta ít. Nhưng chúng ta quyết giữ cho bằng được khu căn cứ nầy để chuẩn bị giải
phóng miền Nam. Thời cơ đã đến gần. Dù có hy sinh nhất định không bỏ căn cứ. Các
đồng chí rõ chưa?
- Rõ. Hàng chục tiếng hô dõng dạc đồng
loạt cất lên.
Súng nổ vang. Máy bay trực thăng của
Địch bắt đầu quần đảo kèm hàng loạt đạn đại liên bắn xối xả xuống. Hoả châu sáng
nhoè trên khu vườn rộng thênh thang. Từng toán lính bắt đầu tràn vào. Những quả
mìn gài sẵn nổ tung. Tiếng súng đáp trả ngày càng tăng lên rồi thưa dần.
- Tụi bây rút đi theo hướng cầu Cái
Sơn. Mình tao ở lại nhử địch. Cùng lắm tao đi theo chị hai Phỉ cho có chị, có
em. Đạn sắp hết rồi. Đi lẹ lên. Tiếng
anh Bi quát lớn.
- Nhưng...nhưng...
- Tao là chỉ huy. Tụi bây phải
nghe không được cãi. Mà chắc gì tụi nó làm gì được thằng Bi nầy. Anh phá lên cười
với đôi mắt tự tin mãnh liệt cùng những tia lửa ngầu ngầu, đục đục trong đôi mắt
ấy.
Khi đồng đội đã rút đi. Anh xông lên
ném những trái lựu đạn cuối cùng rồi phóng nhanh xuống con rạch. Thấy vậy, bọn
chúng ném theo liên tục những trái lựu đạn tạo những tiếng nổ long trời. Những
cột nước vụt lên trắng xoá. Anh ngất đi vì sức ép và bị chúng bắt.
Sáng hôm ấy, người dân vườn mận bất
ngờ khi thấy mấy thằng sỹ quan Mỹ cùng hàng chục tên lính nguỵ hí hửng áp giải
anh Bi về làng. Hàng xóm kéo nhau ra đầy hai bên con đê. Tiếng chú tư Sấm bàn tán:
- Trời. Bộ thằng Bi đầu hàng tụi
giặc sao cà?
- Ai mà biết. Chắc vậy. Coi bộ mấy
thằng ác ôn khoái chí lắm mà. Thiệt...Tội nghiệp chị hai Phỉ, hy sinh cho anh
em mình tới chết. Tưởng sao... Tiếng chú Tám Tưng chen vô.
- Mấy cha “đán” mò hoài. Thằng Bi
hổng tệ vậy đâu. Tui tin nó lắm. Chắc có vụ gì đây. Thủng thẳng coi sao. Chị ba
Mén lầu bầu.
Đi qua dòng người chật cứng hai bên
đê, anh Bi nói lớn:
- Có gì xin bà con thứ lỗi cho
tui.
Đến nhà chị hai Phỉ. Anh Bi đề nghị
chúng cho mở còng để đốt cho chị mấy cây nhang tạ tội. Anh đứng rất khó nhọc với
đôi chân sừng vù vì bị tra tấn, mình đầy thương tích, máu khô còn đọng lại từng
vệt dài trên mặt. Anh lẩm bẩm thì thầm:
- Chị hai. Em dìa để từ giã chị, từ
giã bà con chòm xóm, anh em đồng đội. Chị vui lên và nhớ chờ em nghe chị hai.
- Nè. Hổng có thời gian đâu mà chờ
mầy chỉ chỗ giấu súng đạn của Việt Cộng. Cho đốt nhang con mẹ nầy là may phước ông
bà mầy để lại rồi. Đi lẹ lên. Tiếng thằng đại uý Mừng quát lớn. Hai tên lính lực
lưỡng xốc anh kéo xềnh xệch tiến sâu vào vườn mận. Năm phút... Mười phút trôi
qua năng nề, căng thẳng. Một tiếng nổ điếc tai vang lên. Tiếng người chạy thình
thịch. Tiếng la hét hoảng loạn. Những cái xác Mỹ - Nguỵ được lôi ra từ khu vườn
bê bết máu. Và trong nỗi đau tột cùng của người dân vườn mận khi bắt gặp thi thể
anh Bi đầy vết đạn nhưng đôi mắt vẫn mở trừng trừng và nụ cười mãn nguyện đến lạ
thường nằm vắt mình trên con đê.
Sau nầy, qua lời kể của một người
lính nguỵ may mắn còn sống sau trận đó, mọi người mới biết anh Bi đã dẫn chúng
vào nơi anh phục sẵn trái đạn 105 ly và bất ngờ cho nổ tung rồi anh cố tháo chạy
đến mé sông thì kiệt sức. Bọn chúng điên cuồng bắn hàng loạt đạn vào thân thể
người chiến sỹ kiên cường ấy cho hả giận. Chỉ khi thấy đôi mắt anh vẫn mở, chúng
hoảng hốt quăng súng tháo chạy.
- Vậy đó. Vườn mận nầy linh thiêng
lắm. Người ta đồn có ma vì đêm đêm nghe loáng thoáng tiếng cười nói thì thầm của
du kích Việt Cộng, tiếng la hét của hồn ma Mỹ có, nguỵ có. Nhứt là dòm vô đó thấy
đôi mắt cười cười của chị hai Phỉ, của anh Bi.
- Chú kể nghe nổi da gà quá. Mà chú
có sợ ma hôn? Lan hỏi.
- Tui mà sợ cái nỗi gì. Tui còn vái
vong hồn chị Phỉ, anh Bi hiện dìa kể chuyện cho vui nữa là đằng khác. Chú cười
khà khà.
- Chú kể tiếp đi.
- Bốn mươi mấy năm rồi chớ ít ỏi gì
đâu. Cứ tới ngày giỗ chị Phỉ, anh Bi là cả xóm nầy đều nấu mâm cơm cúng vái như
chính người thân của mình. Mấy năm nay nhà nước đầu tư xây dựng khu căn cứ nầy
hàng chục tỷ đồng, bà con hả dạ lắm. Mình phải kể lại cho xấp nhỏ biết chớ. Nếu
không chúng nó quên chuyện xưa tuốt luốt là người sống có tội với người chết. Vậy
nên tui xung phong làm bảo vệ khu nầy kiêm luôn cái chức “ kể chuyện đời xưa”
cho khách tới tham quan.
Trăng bỗng sáng rực lạ. Gió xuân ào
ào len qua. Những khoảng sáng cứ thấp thoáng ẩn hiện trong khu vườn. Mùa nầy mận
lại đỏ rực. Đôi mắt người bảo vệ già nua ánh lên những đốm sáng lạ lùng đang chằm
chằm nhìn vào khoảng trống như tìm kiếm một cái gì thiêng liêng lắm. Có lẽ chú đang
tìm về những thước phim của quá khứ, tìm kiếm đôi mắt diệu kỳ của những anh hùng
đã ngã xuống chốn nầy, những đôi mắt bất tử với thời gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét