Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

SỐ: 250 - tác giả ĐẶNG BÁ TIẾN






MÀU XANH CƯ K’RÓA
Ghi chép



Tháng 5 này về xã Cư Króa, huyện M’Đrắc, chúng tôi như bị lạc giữa màu xanh của rừng trồng. Bởi đi đâu, ở đâu, đến bất cứ ngã đường nào, thôn nào của xã cũng đều rợp trong màu xanh của keo lá tràm. Có cảm giác như đất này sinh ra là để dành riêng cho cây keo lá tràm bén rễ, xanh cành, tươi tốt.

Ông chủ tịch xã Nguyễn Văn Song khi nghe tôi hỏi chuyện: - “Hình như xã ta có phong trào Người người trồng keo, nhà nhà trồng keo thì phải?” đã trả lời một cách hóm hỉnh, rằng: - “Ở xã chúng tôi không chỉ có phong trào người trồng keo mà còn có cả phong trào keo trồng người nữa đấy. Người trồng keo bạt ngàn xanh tốt, keo giúp người xây nhà to, mua xe xịn, biến nhiều hộ nghèo, vợ chồng lục đục, thành giàu sang, hạnh phúc. Keo không chỉ giúp nhiều hộ dân thoát được đói, nghèo mà còn “nâng tầm” cho nhiều hộ trở thành tỷ phú. Có thể nói dân xã tôi và cây keo có mối lương duyên với nhau thiết tha đằm thắm lắm”. Ông chủ tịch xã trả lời tôi thế, rồi cười một cách vui vẻ. Tôi biết là lòng ông đang rất vui. Không vui sao được, làm chủ tịch ở một xã vùng sâu, vùng xa, vốn xưa kia đầy khó khăn, trên 80%  số hộ nghèo đói, dân cứ loay hoay mãi không biết xoay xở cách nào, trồng cây gì, nuôi con gì để có thể xóa được đói, giảm được nghèo. Thế rồi Công ty nguyên liệu giấy Tân Mai đưa cây keo đến đất này như là một loài cây định mệnh đã gắn kết với con người nơi đây, trở thành thứ cây trồng chủ lực, mở lối cho địa phương vươn lên.
+
Tôi còn nhớ cách đây khoảng 20 năm, tôi đã có dịp về Cư Kroá. Ngày ấy, đồng bào ở đây còn cơ cực lắm. Mới di dân từ Nam Thanh, tỉnh Hải Dương vào, chưa quen khí hậu Tây Nguyên, nên nhiều người bị ốm đau, bệnh tật triền miên. Phổ biến và nặng nề nhất là bệnh sốt rét, có năm toàn xã có trên 30 người chết vì sốt ác tính. Đất đai ở đây lại là đất cát pha sét, pha sỏi, bạc màu, nên không trồng được cà phê – thứ cây trồng có giá trị kinh tế cao nhất ở Tây Nguyên - mà chỉ trồng được các cây hoa màu như đậu, lạc, khoai, sắn, nhưng năng suất cũng… lè tè. Những năm đó hoa màu lại quá rẻ. Bởi thế nhiều hộ đã không cầm cự nổi, phải bỏ Cư K’róa trở về Hải Dương. Số ở lại cứ phải loay mãi trong việc tìm hướng làm ăn. Cái câu hỏi to đùng cứ lơ lửng thường trực trong đầu mỗi cán bộ cấp ủy, chính quyền địa phương, lơ lửng mãi trong nghĩ suy, trăn trở của người dân ở đây hết năm này qua năm khác là trồng cây gì đây, nuôi con gì đây để có thu nhập ổn định, thoát được đói, giảm được nghèo? Bấy giờ nào đã có ai dám mơ làm giàu được trên mảnh đất cát bạc màu này.
Theo ông chủ tịch xã thì: Mãi cho đến năm  2001, khi Công ty nguyên liệu giấy Tân Mai từ Đồng Nai đổ quân lên đây khảo sát đất đai, rồi bắt đầu cắm cây keo lai xuống đất này. Cây keo lai như “gái gặp hơi trai” cứ bời bời xanh tốt, tốc độ sinh trưởng như trông thấy được từng ngày; sau 5 năm đa số đã có đường kính gốc từ 15 đến 25 cm, cao 7 – 8m, cho người trồng một nguồn thu không nhỏ: 70 – 100 triệu đồng/ha. Thế là từ đó dân cả xã nhào theo cây keo. Xã có 9 thôn, 757 hộ dân, thì chỉ có hơn 200 hộ ở thôn 7 và thôn 9 người dân tộc Mông không trồng keo; còn lại 7 thôn người Kinh với trên 550 hộ tất cả đều trồng keo, hộ ít cũng một ha, hộ nhiều tới bảy, tám chục ha. Đến thời điểm này cả xã có tới 16.725 ha keo lá tràm thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, chiếm gần 80% diện tích tự nhiên của toàn xã. Nếu tính cả các loại cây xanh khác như nhãn, mít, vải, chôm chôm… thì diện tích che phủ của toàn xã lên tới gần 90%.
Có lẽ đây là một xã có diện tích che phủ vào hàng bậc nhất nước ta. Bởi thế về thăm Cư K’róa, chỉ mới bước chân đến thôn 1 - thôn đầu tiên của xã - chúng tôi đã bị bao bọc khắp tứ bề bởi màu xanh, như được đắm mình miên man, mơ mộng giữa màu xanh. Màu xanh ấy cho ta cảm giác thật trong lành, thư thái; và đặc biệt cho ta sự mát mẻ dù trời đang đổ nắng chang chang và Đài khí tượng quốc gia cho hay nhiệt độ trong vùng đang 35 – 36 độ C.
Theo anh cán bộ địa chính xã thì: Dân Cư K’róa nhào theo cây keo không chỉ vì cây keo hợp với thung thổ ở đây mà còn vì nó dễ tính, không phải đầu tư nhiều. Suốt chu kỳ kinh tế của nó (5 năm), mỗi ha keo chỉ phải chi tất tần tật khoảng 10 – 12 triệu đồng, nhưng cho thu hoạch tới 100 ster gỗ và nguyên liệu giấy. Với loại cây lớn, có đường kính từ 20 cm trở lên (dùng làm gỗ ép) sẽ bán được 1 ster 1,5 triệu đồng. Loại đường kính nhỏ hơn 20 cm, bán được 700.000 – 800.000 đồng/ ster. Như vậy, cứ trồng 1 ha keo lai, sau 5 năm sẽ cho nguồn thu khoảng 100 triệu đồng.
Điều kỳ diệu của cây keo là khai thác xong có thể dọn gốc trồng lại ngay và cây keo trồng lứa sau bao giờ cũng tốt hơn lứa trước. Không như trồng sắn chỉ làm được vài vụ là đất bị bạc màu, trơ lì, những vụ sau, người trồng sắn chỉ còn “ăn rễ”. Vì thế, nhà có nhiều diện tích, người ta trồng keo liên tục, hết chu kỳ này đến chu kỳ khác, không bao giờ cho đất nghỉ. Cũng vì thế trên địa bàn xã năm nào cũng có khoảng 70 – 80 ha keo được khai thác bán cho các công ty nguyên liệu giấy và làm gỗ ép, người dân thu về 6 – 7 tỷ đồng/năm.
Hôm ở Cư K’róa, chúng tôi đã đến thăm một trong những hộ trồng keo giỏi nhất của xã – Đó là hộ bà Ngô Thị Vân ở thôn 2, hiện đang trồng 82 ha keo lai, từ năm thứ 1 đến thứ 5. Bà Vân cho biết: Từ đầu năm 2012 đến đầu tháng 5.2013 bà cho khai thác 33 ha, thu trên 2 tỷ đồng. Bà thuê tới 7 nhân công làm việc quanh năm, hết thu hoạch xong liền chuyển sang trồng mới ngay, không bao giờ để đất trống. Tiếp khách dưới rặng nhãn râm mát ngay trong vườn nhà, bà Vân xởi lởi:
- “Bây giờ thì tôi mê cây keo quá rồi chú ơi, mê đến quên ăn quên ngủ, lúc nào cũng nghĩ về nó, lúc nào cũng muốn làm việc, mà làm không biết mệt. Năm nay đã 65 tuổi, tôi vốn là giáo viên nghỉ hưu, chồng tôi cũng là cán bộ nghỉ hưu, cả 2 vợ chồng đều có lương hưu đủ sống an nhàn, nhưng tôi thấy mình không thể ngồi yên trong nhà được. Làm có hiệu quả, nên lòng dạ lúc nào cũng thấy vui vẻ, quên cả mệt nhọc, quên cả tuổi già. Đấy chú xem, không có cây keo thì làm gì có cơ ngơi này, làm gì có ô tô, máy kéo và các phương tiện sinh hoạt đắt tiền khác, lấy đâu ra tiền để đầu tư cho con cái học hành và giúp chúng nó mở được công ty làm  ăn riêng ”…
Nghe cách nói chuyện khá hoạt khẩu, nhìn vóc dáng khỏe khoắn, bước đi nhanh nhẹn và nhìn nước da rám nắng nhưng mặn mà của bà, tôi biết bà là một con người rất chịu thương chịu khó, giàu nghị lực, giàu ý chí, biết nhìn xa trông rộng, đã quyết làm việc gì thì làm bằng được. Đấy cũng là điều giúp tôi giải thích vì sao từ cách đây mười mấy năm  bà đã “thâu tóm được” 82 ha đất trồng keo bới giá rẻ. Giờ chỉ riêng giá trị đất thôi, nếu chuyển nhượng bà cũng thu được cả chục tỷ đồng. Từ Hải Dương vào đất này năm 1993, với hai bàn tay trắng, tạo được gia sản như thế, thật đáng nể phục.

Rời Cư K’róa, lòng chúng tôi không chỉ có niềm vui về đời sống của người dân đã khấm khá hẳn lên, làng quê thanh bình và gương mặt người nào cũng lộ rõ sự vui tươi, phấn khởi, mà Cư K’róa còn cho chúng tôi thấy rõ một hướng đi, hay có thể nói là một giải pháp hữu hiệu để triển khai thực hiện một nội dung hết sức quan trọng vừa được Hội nghị TW 7 (khóa 11) đề cập – đó là vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong rất nhiều giải pháp để ứng phó với biến đổi khí hậu thì trồng rừng, nâng cao độ che phủ cho mặt đất theo chúng tôi là biện pháp hàng đầu cấp thiết nhất hiện nay. Vì rừng sẽ tạo ra sự cân bằng sinh thái, giữ nước, tạo nguồn sinh thủy, đất mặt không bị rửa trôi, tránh được lũ ống, lũ quét, không bị hạn hán, sa mạc hóa… Và như vậy, Cư K’róa chính là một tấm gương, một mô hình tốt để những nơi khác có điều kiện tương tự học tập.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét