Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

GIAN NAN ĐƯỜNG ĐẾN CÁI CHỮ

(Tiếp theo)

Ghi chép của HỒNG CHIẾN

II/ THỰC TRẠNG Ở MỘT TRƯỜNG NỘI TRÚ DÂN NUÔI:
Để xem thử khó khăn đó như thế nào, tôi đề nghị thầy Lê Cảnh Truật đưa đến Trường nội trú dân nuôi đông học sinh nhất. Thầy vui vẻ nhận lời. Mặc dù trời mưa tầm tã, hai chúng tôi vẫn quyết định đi xe máy và xác định sẽ… ướt! Đường về Trường THCS Phan Bội Châu thuộc xã Ea Trang, dễ đi vì đó là đường quốc lộ 26A, con đường huyết mạch nối khu vực Tây Nguyên với thành phố Nha Trang. Sau quãng đường hơn 20km uốn lượn qua các đèo dốc quanh co, xe dừng lại trước căn nhà cấp bốn, nước vôi còn mới, nền xi măng, mái lợp tôn lạnh. Thấy chúng tôi vào, các cửa nhà đều bật mở, các em học sinh trong bảy phòng ở ùa ra  nhìn chúng tôi. Trong các phòng ở, mỗi phòng xếp bốn giường tầng. Hai bên đầu hồi nhà và toàn bộ phía sau khu nhà còn ba dãy lều lụp xụp, chạy dài, mái lợp nham nhở đoạn bằng cỏ gianh, đoạn bằng vải bạt, đoạn bằng tôn, có đoạn chỉ là những tấm nilông che phủ nhưng tất cả giống nhau ở độ cao không quá 1,5m, xung quang trống thiên, xoong nồi bày la liệt, chiếc nào chiếc ấy chỉ to bằng cái tô canh. Như đoán được sự ngạc nhiên của tôi, thầy Lê Cảnh Truật bùi ngùi nói: Đây là phòng ở mới được xây từ ngân sách  địa phương hỗ trợ một phần cho các em đang theo học tại Trường nội trú dân nuôi. Còn các túp lều dựng xung quanh đây là bếp mà cha, mẹ các em tự làm cho con mình có chỗ nấu ăn. Tất cả còn tạm bợ lắm. Nhưng đây là những em có may mắn, chứ nhiều em còn phải ở trong những chiếc chòi làm tạm chỉ che nắng chứ không che được mưa. Ta về trường chính sẽ thấy.
Hai chúng tôi đi theo quốc lộ 26A một đoạn nữa rồi rẽ vào con đường bê tông mới đổ, hai trụ cổng xây còn dang dở, chắc do mưa nhiều, không làm được. Hết dốc, sân trường hiện ra trong sự mượt mà của tán phượng, tán bàng cao chót vót; ngôi trường hai tầng màu sơn hồng hồng còn tươi nguyên, hai dãy nhà xây cấp bốn bên cạnh tạo thành hình chữ U bao lấy chiếc sân không được rộng lắm. Thế là tôi lại trở lại đúng ngôi trường Dân tộc nội trú xã Ea Trang. Sau 28 năm đi xa, mọi sự thay đổi đến ngỡ ngàng. Qua màn mưa  dày đặc, tôi vẫn thấy dãy núi phía tây, cây keo tai tượng đã mọc cao vút. Năm 1979, khi tôi về đây dựng trường, buổi sáng thỉnh thoảng từng đôi mang rủ nhau ra nô đùa trên các triền núi làm tro bụi bay mù mịt; chiều về, từng đàn nai năm, sáu con nghênh ngang lang thang trên triền đồi đã bị đốt cháy trụi, trơ mặt đất đầy tro than đen sì; bọn chúng ăn tro và điềm nhiên nhìn xuống, không sợ sệt gì.
Đón chúng tôi ngay chân cầu thang đưa lên phòng làm việc là một thanh niên còn trẻ, cao, hơi gầy, tuổi độ ngoài ba chục. Qua giới thiệu của thầy Phó phòng tôi biết đó là thầy Nguyễn Mạnh Điệp, Hiệu trưởng nhà trường. Chúng tôi được mời lên phòng Hiệu trưởng; đó là một phòng học được ngăn đôi, ngoài bộ bàn ghế tiếp khách, dàn vi tính và bàn làm việc, chỉ có một cái tủ hồ sơ. Theo báo cáo của Hiệu trưởng, năm học 2007-2008 trường THCS Phan Bội Châu có 10 lớp với 412 em học sinh theo học, gồm bảy dân tộc khác nhau và không có em học sinh người Kinh nào. Trong số học sinh đang theo học tại trường có 152 học sinh là con em đồng bào các dân tộc ít người phía Bắc di dân tự do vào làm ăn sinh sống ở trong rừng sâu cách trường trên 20 km, cá biệt có em ở xa trường gần 60 km. Cha mẹ các em mong muốn con em mình được học chữ để sau này sống có ích cho xã hội nên 3 năm học gần đây đã mang con ra xin nhà trường cho được làm nhà ở lại trường; cuối tuần các em về nhà lấy lương thực, thực phẩm, đầu tuần ra học; có em ở xa quá thì hàng tuần cha mẹ mang ra cho. Nhìn các em sinh hoạt hàng ngày hai bữa ăn chỉ có cơm với bột canh, nước mắm; ít khi có được con cá khô; thương lắm nhưng không biết làm sao giúp được.
- Nơi ở của các em được bố trí như thế nào?
- Cực lắm anh ạ! - Thầy Hiệu trưởng giọng bùi ngùi trả lời tôi mà như có gì đó làm giọng nghèn nghẹn - Hiện nay trường mới có được bảy phòng ở cho các em, cố lắm chỉ thu xếp có chỗ ở cho 70 em, số còn lại phải tự túc nơi ở. Nói chính xác hơn là bố mẹ các em phải tự vào rừng chặt cây về dựng cho con em mình một túp lều bằng tất cả những thứ gì có thể kiếm được. Nhà khá giả thì mua vài tấm tôn, nhà nghèo thì cắt tranh hoặc mua vài mét ni lông căng lên che mưa nắng để các em ăn ngủ qua ngày, tội lắm!
- Quản lý các em ở lại trường như thế này bằng cách nào?
- Ban ngày giao cho giáo viên chủ nhiệm, ban đêm các thầy cô phân công nhau trực đôn đốc, quản lý học sinh. Toàn trường có 15 giáo viên, kể cả Ban Giám hiệu, phải chia  nhau ra mà trực, nhiều hôm nửa đêm có học sinh đau, ba bốn thầy cô lại phải thức trắng đưa các em về bệnh viện huyện cấp cứu cách xa hơn 20km, toàn đường đèo dốc như anh thấy đó. Cực lắm.
-Chế độ cho các thầy cô giảng dạy ở đây như thế  này được thực  hiện như thế nào?
- Chưa có chế độ gì cả - Thầy Lê Cảnh Truật trả lời - Hai năm học trước chưa có công văn hướng dẫn nên ngành không có kinh phí gì để hỗ trợ thêm cho các thầy cô làm công tác quản lý học sinh ở nội trú như thế này. Tất cả các giáo viên công tác tại các trường có học sinh nội trú dân nuôi tham gia quản lý học sinh được xem như đó là trách nhiệm, nghĩa vụ chứ không có phụ cấp như các trường nội trú chuyên biệt. Đây là một sự bất cập mà Phòng đã đề nghị nhưng đến năm nay UBND tỉnh mới ban hành quyết định 25 cho phép giáo viên quản lý học sinh nội trú dân nuôi được giảm ½ số tiết phải đảm nhiệm hàng tuần. Tuy muộn nhưng nó cũng kịp thời động viên anh chị em giáo viên đang công tác ở những vùng đặc biệt khó khăn như thế này. Hiện nay trường còn thiếu giáo viên, nhiều thầy cô phải đảm nhận gần ba chục tiết trên tuần, riêng dạy và soạn giáo án đã không còn thời gian nghỉ, chưa kể đêm đêm phải xuống với học sinh, chỉ bảo thêm cho các em. Hơn 150 em ở nội trú mà chưa có nhân viên y tế chăm sóc sức khoẻ cho các em, tất cả đều đè nặng lên vai người thầy giáo. Biết là thiệt cho các thầy cô lắm nhưng điều kiện như vậy thì làm sao được.
Quả thật, tôi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, theo Luật Lao động thì các cán bộ quản lý ở đây làm sai, chưa đúng với quy định; nhưng về tình thì phải chấp nhận, tất cả vì học sinh thân yêu mà! Làm nghề giáo, dạy vùng sâu, vùng xa như thế này đúng là “thiệt đơn thiệt kép”. Điều kiện sinh hoạt khó khăn, công việc gánh vác lại nặng nề hơn mà không có thù lao gì. Chỉ riêng so với các đồng nghiệp dạy trường nội trú chuyên biệt, được ở ngay tại trung tâm huyện, sinh hoạt đầy đủ tiện nghi, phụ cấp  về quản lý học sinh mỗi tháng được nhận thêm 70% lương. Còn các thầy cô ở trường THCS Phan Bội Châu này, trước núi, sau núi, chỉ có một con đường chạy ngang qua, muốn mua sắm, hay kiếm đồ ăn tươi lại phải về trên thị trấn huyện cách xa hơn 20km. Ngôi trường nằm cheo leo trên đỉnh đồi, hai dòng khe nhỏ chảy hai bên sườn đồi vô tình tạo thành hai con hào tự nhiên tách biệt với dân. Đau ốm, bệnh tật không may mắc phải là nỗi cực cho người khoẻ. Thế nhưng tất cả các thầy cô cũng như cán bộ quản lý ở đây chịu khổ mãi thành “quen” nên nhìn ai cũng tươi vui, phấn khởi. Có lẽ sự ham học của các em học sinh làø liều thuốc tinh thần tốt nhất giúp các thầy cô chấp nhận với cuộc sống nơi đây.
Tôi đề nghị thầy Hiệu trưởng dẫn đi thăm khu nội trú của học sinh. Trời vẫn lất phất mưa, chúng tôi phải bước vội qua phía dãy nhà cấp bốn cho khỏi ướt. Trong phòng đầu tiên, có hai chiếc giường một kê ở hai góc, còn lại trên nền nhà trải 8 chiếc chiếu một liền nhau, phía giáp bờ tường, trên mỗi chiếc chiếu đều có một chiếc chăn đơn và một cái màn được gấp rất khéo. Hai em học sinh nữ mặc trang phục người H’ Mông, lưng dựa vào tường, kê sách lên đùi mải mê viết, không biết chúng tôi đến. Nhìn những cô bé ham mê học tập trong hoàn cảnh khó khăn như thế này lòng tôi cảm thấy như có lỗi với các em.
Như đoán được suy nghĩ của tôi, thầy Nguyễn Mạnh Điệp giải thích thêm: Để các em có được chỗ ăn ngủ thế này cũng quý lắm rồi. Nhà trường phải tính toán chi li, các thầy cô phải chấp nhận sinh hoạt chật chội để dành cho các em. Chúng tôi biết các em chỉ có một chiếc chiếu trải trên nền xi măng như thế này chắc chắn là lạnh lắm. Biết làm sao được. Nhưng so với các em ở ngoài kia thì…
Thầy Hiệu trưởng nghẹn lời, không nói tiếp được. Tôi chợt nghĩ: ngoài mấy tiếng ngồi trên lớp học, thời gian còn lại, các em phải nằm hoặc ngồi trên nền xi măng lạnh giá như thế này để học, để viết, để ngủ ư? Sức của các cô bé, cậu bé tuổi thiếu nhi làm sao có thể trụ nổi suốt chín tháng theo học? Ở ngoài kia người ta đang hô hào hướng dẫn học sinh ngồi bàn đúng tiêu chuẩn, ngồi đúng tư thế để chống các loại bệnh tật. Còn ở đây…!
Tôi đi theo thầy Hiệu trưởng ra phía sau dãy nhà, bất chợt hiện ra trước mắt tôi ba dãy lều dựng sát nhau, cái lợp bằng tôn, cái lợp bằng cỏ gianh, cái được phủ bằng cả tấm bạt lớn… che xung quanh cũng chẳng cái nào giống cái nào, cái được che bằng những thanh nứa đập dập, cái được kéo bằng vải bạt từ nóc xuống tận đất, cái được che bằng cỏ gianh. Bên trong những túp lều cao không quá mét rưỡi, rộng khoảng ba mét được lát tre đập dập, gác lên trên hai cây gỗ tròn dùng vừa làm giường, vừa làm bàn học cho các em. Xung quanh các chòi ấy là những vũng sình lầy, nước đọng. Một số em học sinh thấy tôi lom khom đi vào, đang ngồi học bài, vội nhảy xuồng đất cất tiếng chào.
Mang tâm trạng không vui khi phải chứng kiến cảnh học sinh ăn ở trong những túp lều tạm bợ, ngồi học không bàn, không ghế tới trao đổi với Đảng uỷ và Uỷ ban nhân dân xã Ea Trang, ông Y Bhiêm - Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ xã - cho biết thêm: Xã cũng biết các em ăn ở cực lắm, đã đề nghị lên cấp trên nhiều rồi. Như anh thấy đấy, đây là xã nghèo của huyện, dân cư ở rãi rác khắp nơi, có thôn muốn xuống thăm phải đi ra thị trấn huyện, qua 4 xã bạn mới đến được. Điều kiện chung khó khăn lắm, chỉ biết trông chờ cấp trên thôi!
Tôi hỏi thêm thầy Lê Cảnh Truật: Chẳng lẽ lãnh đạo phòng Giáo dục đành bó tay chấp nhận để học sinh ăn học mãi như thế này ư? Phải tìm ra biện pháp gì chứ.
-Ngành cũng đã đề xuất với lãnh đạo cấp trên hai phương án: Một là cấp trên hỗ trợ kinh phí xây dựng đủ phòng ở cho học sinh, trong các phòng ở ấy trang bị thêm cho các em có phương tiện sinh hoạt tối thiểu; hai là cho thành lập thêm một số trường THCS ghép với tiểu học, để các em có thể học lớp sáu, lớp bảy gần nhà, thu hút thêm học sinh; thời gian sau đủ học sinh, ta tách trưòng THCS ra riêng. Nếu thực hiện phương án hai sẽ khắc phục cơ bản tình hình học sinh phải ở lại nội trú dân nuôi như hiện nay, nhưng khó khăn là phải tăng biên chế giáo viên, đặc biệt là giáo viên THCS cho các trường, đây là điều mà chính quyền địa phương cấp huyện không thể tự quyết được.
(Còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét